Saturday, May 26, 2012

Công Giáo Việt Nam trong lịch sử mất nước hồi cuối thế kỷ 19

Nhân dọc bài “Nhớ Mái Trường Xưa – Pelleren”

Ý kiến chúng tôi về tên Giám mục cướp nước Pelleren, kẻ mà Giáo Hội Thiên Chúa Giáo Việt Nam vẫn tôn sùng ngưỡng mộ và mang ơn bái phục.
                                            ***
Pelleren là thằng giặc dưới lớp áo chùng thâm, hắn đến cướp nước chúng ta.  tại sao những người được xem như thành phần trí thức Thiên Chúa giáo lại lấy tên hắn đặt cho một ngôi trường lón của Thiên Chúa giáo Việt Nam tại Huế. Chẳng lẻ giới trí thức Thiên Chúa giáo Việt Nam không thuộc  sử, hay không xem Việt Nam là Tổ Quốc cần phải bảo vệ, hay muốn được về nước Chúa thì phải phản quốc ! Tôi không nghĩ như thế! Và điều tôi tin chắc, những người có đức tin vào Đấng Ky-Tô vẫn có tấm lòng với Quê hương và vẫn quyết tâm nói lên sự thật. Nhưng rất tiếc số người nầy quá ít, Trong khi bọn người như Vũ linh Châu (nghe nói hắn là Linh mục). Linh Mục Hoàng Quỳnh, Giám mục Ngô đình Thục, Minh Võ, Trần phong Vũ, TS Hồng Lĩnh Hồ Nam Trân, Mathew Trần, Joseph Phạm tức Phạm trọng Luật, Nguyễn Khắc Bình, Trần minh Công, Đặng Phúc, csqg<phudacuy, tieudietcs, Viêt Si, Tôn thất Sơn, Trần tâm Trực, Nguyễn đăng Trình (Tâm cao), Hàn giang Trần Lệ Tuyên, Nguyễn phúc Liên, Trần trung Chính, Trần văn Ngà,Bửu Nguyễn, Tú Gàn tức Nguyễn Cần tức Lữ Giang, Nguyễn văn Lục, Diễn đàm ba cây trúc, dư đảng cần lao...lại quá nhiều. Tại sao tôi tin tưởng rằng trong hàng ngũ những người có đức tin về Thiên Chúa không hùa theo bọn phản quốc, bọn bất cố liêm sĩ, đạp bừa lên công chính (Công Chính là điều mà kinh sách của Thiên Chúa giáo kêu gọi tín đồ phải tôn trọng). Bởi vì dù ít, quá ít nhưng vẫn có đó là Linh Mục Trần Tam Tĩnh, Linh Mục Chân Tín, Giáo Sư Nguyễn ngọc Lan, Giáo sư Nguyễn mạnh Quang, ông Charlie Nguyễn, Bác sĩ Nguyễn văn Thọ và có thể thêm nữa, nhưng chúng tôi chưa được biết.
Để chứng minh điều trên, chúng tôi kính mời quý vị đọc tác phẩm "Thập Giá và Lưỡi Giươm" của Linh mục Trần tam Tĩnh. Tiện đây, chúng tôi xin trích đoạn của tác giả Charlie Nguyễn viết về tên giặc mặc áo chùng thâm đã theo hướng dẫn, nài nỉ, kích động và có mặt trong đội quân cướp nước Việt Nam của chúng ta:
                                              ------------------
- Đầu tháng 5/1857, giám mục Pellerin và linh mục Huc đến Paris trình bày kế hoạch đánh chiếm Đông Dương tại Ủy Ban Thuộc Địa Pháp. Ngày 21-5-1857, giám mục Pellerin và linh mục Huc được Napoleon III tiếp kiến tại hoàng cung. Sau đó, vào tháng 6 và tháng 8 năm 1857, Pellerin và Huc lại được Napoleon tiếp kiến thêm hai lần nữa. Toàn bộ kế hoạch xâm lược Việt Nam do hai giáo sĩ thừa sai này đề nghị đều được giáo hoàng Pio IX và Napoleon III tán thành (TSCGP, trang 554).
Giám mục Pellerin sinh tại Pháp năm 1813, được cử làm giám mục tại Saigon năm 1844. Năm 1857, y về Pháp vận động chiếm Việt Nam. Năm 1859, Pellerin trở lại Việt Nam trên chiếm hạm của Rigault de Genouilly, nhân dịp này, y xúi giục đô đốc Genouilly đánh chiếm Đà Nẵng, nhưng Genouilly không chịu vì y muốn chiếm Saigon trước đã. Sau đó, Pellerin được hội Thừa Sai đổi về Penang dạy học, y chết tại đó năm 1862, thọ 49 tuổi (TSCGP, trang 554).


Công Giáo Việt Nam trong lịch sử mất nước hồi cuối thế kỷ 19

                                                          Charlie Nguyễn

            Nếu lấy năm 1533 làm cái mốc đầu tiên về sự có mặt của đạo Công giáo trên đất nước Việt Nam thì tới nay (2003), Giáo hội Công giáo Việt Nam đã có 470 năm lịch sử. Trong chiều dài thời gian gần 5 thế kỷ có khoảng hơn bốn thập niên trong nửa cuối thế kỷ 19 (1852-1884) là thời gian thăng trầm, phức tạp và ô nhục nhất trong giáo sử Công giáo Việt Nam. Đó chính là thời gian các giáo sĩ trong Hội Thừa Sai Paris và khoảng 600,000 giáo dân đã tích cực giúp cho thực dân Pháp hoàn thành dễ dàng cuộc xâm chiếm Việt Nam và mau chóng bình định lãnh thổ để áp đặt nền thống trị lên dân tộc Việt Nam trong hơn 80 năm.
Những gì đã xảy ra trước và trong quá trình xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp đã khẳng định rằng:  các giáo sĩ trong Hội Thừa Sai Paris đã chủ động tạo ra cớ cho cuộc can thiệp võ trang của Pháp vào Việt Nam. Sử gia Pháp Georges Coulet đã viết trong tác phẩm của ông Cultes et Religions de l’Indochine Annamite (Saigon, p. 99) như sau: “ Thiên Chúa giáo đã mở cửa cho quân đội Pháp và đã là nguyên nhân trực tiếp của cuộc xâm lược đất nước này”.
Suốt thời gian giặc Pháp đô hộ, danh dự của tổ quốc Việt Nam đã bị xỉ nhục nặng nề, sinh mạng và tài sản của nhân dân bị quân địch xâm phạm nghiêm trọng. Đây là những vết hằn lịch sử khó có thể xóa mờ trong ký ức của mọi người Việt yêu nước. Lịch sử mất nước của dân tộc Việt Nam vào cuối thế kỷ 19 gắn liền với sự có mặt của Hội Thừa Sai Paris - một công cụ mở rộng nước Chúa của Vatican, đồng thời cũng là một công cụ mở rộng thuộc địa của thực dân Pháp. Sát cánh với Hội Thừa Sai Paris là Giáo Hội Công Giáo Việt Nam vào thời điểm đó đã hiện nguyên hình là một tập đoàn Việt gian bán nước theo giặc, trắng trợn phản bội Tổ Quốc.
Việc dựng lại một cách chân xác giai đoạn thăng trầm của lịch sử mất nước ô nhục đó không phải là chuyện dễ dàng vì các sử liệu về giáo sử Công giáo Việt Nam còn lưu lại ở Việt Nam rất hiếm hoi. Nhưng một sự may mắn đã đến với chúng ta là sử gia Patrick J.N. Tuck, người Ấn Độ, giáo sư sử học tại đại học Liverpool (Anh Quốc) đã bỏ ra nhiều công sức sưu tầm các tư liệu liên quan đến các hoạt động của các giáo sĩ thừa sai Pháp và các chính sách của đế quốc tại Việt Nam từ 1857 đến 1914.
Tất cả các tài liệu lịch sử quí giá này đều là những tài liệu do chính văn khố của Hội Thừa Sai Paris cung cấp. Đây là một món quà tinh thần quí giá cho những ai hằng thao thức tìm hiểu giáo sử Công giáo Việt Nam. Bộ sưu tập tài liệu về Hội Thừa Sai Paris của sử gia Patrick J.N. Tuck được viết bằng Anh ngữ dưới tựa đề “French Catholic Missionaries and the Politics of Imperialism in Vietnam 1857-1914” do Liverpool University Press xuất bản tại Anh Quốc năm 1987. Bản dịch Việt ngữ do UBĐKCGYNVN/TP.HCM thực hiện và phổ biến năm 1989 dưới tựa đề: “Thừa Sai Công Giáo Pháp và các chính sách của dế quốc tại Việt Nam 1857-1914”. (Mỗi khi trích dẫn tài liệu này, chúng tôi xin ghi tắt TSCG) . Ngoài tư liệu của Patrick Tuck, chúng tôi còn tham khảo thêm sách  “Sự Du Nhập của Thiên Chúa giáo vào Việt Nam từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19”  của giáo sư Nguyễn Văn Kiệm với sự hợp tác của Viện Nghiên Cứu Tôn Giáo và Hội Khoa Học Lịch Sử Việt Nam (mỗi khi trích dẫn sách này, chúng tôi xin ghi vắn tắt SDN/TCG).
Cả hai cuốn sách nói trên cung cấp cho chúng ta rất nhiều bằng chứng lịch sử về các hoạt động đầy tội ác của các giáo sĩ thuộc Hội Thừa Sai Paris trong nỗ lực vận động Vatican và hoàng gia Pháp (Napoleon III) xâm chiến Việt Nam hầu thực hiện hai mục tiêu vừa truyền giáo vừa xâm chiếm thuộc địa.

            I. Sự thành lập hội Thừa Sai Paris và tiến trình tội ác của hội này đối với dân tộc Viêt Nam.
Sáng kiến đầu tiên đưa đến việc thành lập hội Thừa Sai Paris là do Alexandre de Rhôde. Vào năm 1652 và 1653, Alexandre de Rhôde về Âu châu vận động Vatican và Pháp thành lập hội Thừa Sai gồm toàn giáo sĩ người Pháp để gửi sang Viễn Đông truyền đạo và mở rộng ảnh hưởng của Pháp tại vùng này. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, ảnh hưởng của Bồ Đào Nha tại Á Châu còn mạnh. Đại sứ Bồ Đào Nha bên cạnh Vatican cực lực phản đối việc thành lập Hội Thừa Sai Pháp và hăm dọa sẽ bắt bỏ tù các giáo sĩ đến Á Châu mà không có phép của hoàng gia Bồ. Phải đợi đến năm 1658, khi hoàng gia Bồ suy yếu mọi mặt và không còn đủ sức tài trợ cho cuộc truyền giáo tại Á Châu, nên đã bị Tòa Thánh chính thức thu hồi “độc quyền truyền giáo” (Padroado).
Hội Thừa Sai Paris được chính thức thành lập năm 1663 gồm toàn các giáo sĩ người Pháp thuộc ngành triều (secular), tức là các tu sĩ chuyên việc trông coi giáo dân tại các giáo xứ. Kể từ đó, mỗi khi thiết lập một giáo phận mới tại Á Châu, Vatican đều giao các giáo phận mới cho các giáo sĩ thừa sai Pháp cai quản. Mặc dầu hoạt động của các thừa sai đều thuộc về tôn giáo, nhưng chính quyền Pháp đã ra lệnh cho bộ Ngoại Giao, bộ Thương Mại và nhất là bộ Hải Quân và Thuộc Địa phải tích cực yểm trợ cho các giáo sĩ thừa sai (TSCG, trang 27). Ông Bonifacy, tác giả cuốn “Les Debuts du Christianisme en Annam” xuất bản tại Hà-Nội năm 1930 đã viết: “Vai trò của Alexandre de Rhôde trong việc thành lập hội Thừa Sai Paris đã đưa giáo hội Công giáo Đàng Trong và Đàng Ngoài ra khỏi vòng kiểm soát của người Bồ Đào Nha, và đem lại cho người Pháp vai trò quan trọng nhất ở bán đảo Đông Dương” p. 16-17 (SDN/TCG, trang 123).
Việc thành lập hội  Thừa Sai Paris năm 1663 không phải là một hành vi tôn giáo thuần túy mà là một nhu cầu cần thiết của chủ nghĩa thực dân Pháp thời đó, vì hội này do chính phủ Pháp thành lập và tài trợ để làm công cụ thực hiện tham vọng bành trướng thuộc địa ở Viễn Đông. Danh từ “giáo sĩ thừa sai” (missionaries) được định nghĩa là người được cử ra nước ngoài để thực hiện những công việc do cấp trên sai phái. Cấp trên ở đây không hẳn chỉ là Toà Thánh La Mã mà chủ yếu là quốc gia đã lập ra hội Thừa Sai. Tự Điển Bách Khoa Hoàn Vũ (Encyclopedia Universallis) của Pháp xuất bản năm 1990 cũng thêm định nghĩa Hội Thừa Sai (Mission) như sau: “Hội Thừa Sai  cũng tiến hành nhiệm vụ thực dân, cũng chinh phục và tiêu diệt, tham gia các cuộc chinh phạt để đoạt lấy quyền uy vinh quang và lợi tức. Điều quan trọng nhất của Hội Thừa Sai là đồng hóa văn hóa của các xứ bản địa” (SDN/TCG, trang 302).
Gần hai thế kỷ sau ngày thành lập, đến đầu thế kỷ 19 có 3 biến cố xảy ra làm cho Hội Thừa Sai Paris trở thành hội Truyền Giáo mạnh nhất của Giáo hội Công giáo:
- Biến cố 1:  Vào năm 1822, các nhà tư bản Pháp thành lập tại Lyon một tổ chức lấy tên là “Hội Truyền Bá Đức Tin”.Đây là một trung tâm tài chánh lớn lao yểm trợ các hoạt động của các giáo sĩ thừa sai tại Viễn Đông. Năm 1839, quĩ của hội lên tới hai triệu francs.
- Biến cố 2: Năm 1839, giáo hoàng Gregory XVI chính thức thừa nhận hội Thừa Sai Paris là cơ quan truyền giáo chủ lực tại Viễn Đông. Tuy nhiên, trọng tâm trách nhiệm của Hội là Việt Nam.
- Biến cố 3: Cuộc đảo chánh do các giáo sĩ Pháp chủ trương năm 1851 đã đưa Louis Napoleon lên ngôi hoàng đế (tức Napoleon III). Sự kiện này đưa đến sự liên kết mật thiết giữa hoàng gia Pháp và Vatican. Điển hình là vụ Vatican và Pháp dàn dựng màn kịch bịp bợm “Phép lạ Lộ Đức” năm 1858  (xin đọc webpage Giao Điểm tháng 8, 2003).

 A.- Các giáo sĩ thừa sai tích cực vận động Vatican và chính quyền Pháp xâm chiếm Việt Nam.  
-  Các giáo sĩ thừa sai Paris giao du thân mật với hoàng hậu Eugénie, họ đã lợi dụng hoàng hậu  xúi giục Napoleon III xâm chiếm Việt Nam từ năm 1852. Do đó, Napoleon III đã đích thân ra lệnh cho phái bộ ngoại giao Pháp tại Trung Quốc phải thâu thập các tài liệu về công cuộc truyền giáo tại Đông Dương (TSCGP, trang 53).
- Đầu tháng 5/1857, giám mục Pellerin và linh mục Huc đến Paris trình bày kế hoạch đánh chiếm Đông Dương tại Ủy Ban Thuộc Địa Pháp. Ngày 21-5-1857, giám mục Pellerin và linh mục Huc được Napoleon III tiếp kiến tại hoàng cung. Sau đó, vào tháng 6 và tháng 8 năm 1857, Pellerin và Huc lại được Napoleon tiếp kiến thêm hai lần nữa. Toàn bộ kế hoạch xâm lược Việt Nam do hai giáo sĩ thừa sai này đề nghị đều được giáo hoàng Pio IX và Napoleon III tán thành (TSCGP, trang 554).
Giám mục Pellerin sinh tại Pháp năm 1813, được cử làm giám mục tại Saigon năm 1844. Năm 1857, y về Pháp vận động chiếm Việt Nam. Năm 1859, Pellerin trở lại Việt Nam trên chiếm hạm của Rigault de Genouilly, nhân dịp này, y xúi giục đô đốc Genouilly đánh chiếm Đà Nẵng, nhưng Genouilly không chịu vì y muốn chiếm Saigon trước đã. Sau đó, Pellerin được hội Thừa Sai đổi về Penang dạy học, y chết tại đó năm 1862, thọ 49 tuổi (TSCGP, trang 554).
Linh mục Huc sinh tại Pháp năm 1814. Trong các năm 1844-1846, linh mục Huc mạo hiểm đến giảng đạo tại Tây Tạng và miền Tân Cương (Trung Quốc). Năm 1850, linh mục Huc xuất bản  mấy cuốn sách kể chuyện mạo hiểm giảng đạo tại các xứ huyền bí Á Châu, đồng thời viết sách kêu gọi chính quyền Pháp xâm chiếm Triều Tiên, Madagascar và Việt Nam làm thuộc địa. Napoleon III đã đọc và rất chú ý đến các sách của linh mục Huc. Do đó, sau khi tiếp xúc với linh mục Huc năm 1857 tại hoàng cung, Napoleon II đã cho thành lập “Ủy Ban Brenier” để nghiên cứu đề nghị của linh mục Huc. Trong khi đó, giám mục Pellerin đến thuyết giảng tại nhà thờ Notre Dame de Paris và vận động tờ báo L’Univers ủng hộ việc xâm chiếm Việt Nam làm thuộc địa.
Tháng 5/1857, ủy ban Brenier lập bản phúc trình đề nghị hoàng đế Napoleon III áp đặt chế độ bảo hộ lên Việt Nam để phục vụ lợi ích của nước Pháp. Ủy ban này đề nghị thực hiện một cuộc viễn chinh với một hạm đội gồm 6 tàu chiến và 2600 thủy quân, kinh phí 4 triệu quan. Quân viễn chinh sẽ được sự yểm trợ của hải quân Pháp đang đóng tại Trung Quốc và sự hỗ trợ tích cực của 600,000 giáo dân công giáo bản địa.
Hoàng đế Napoleon III chấp thuận đề nghị của ủy ban Brenier ngày 21-9-1857. Mấy tháng sau, Napoleon III giao nhiệm vụ  cụ thể cho đô đốc Rigoult de Genouilly để thực hiện cuộc bảo hộ của Pháp trên toàn lãnh thổ Việt Nam (TSCGP, trang 57-61).  Cuộc chiến tranh xâm lược kéo dài từ cuối 1857 đến tháng 2/1861, Pháp chiếm trọn Côn Đảo, Biên Hòa, Bà Rịa, Vĩnh Long và toàn miền Đông Nam Kỳ.

B./Quân dội viễn chinh Pháp và các giáo sĩ thừa sai tại Việt Nam có cùng mục tiêu chung
            - Cơ quan tối cao điều hành cuộc viễn chinh xâm lược Việt Nam là bộ Hải Quân và Thuộc Địa Pháp, trụ sở tại Paris, do Chasseloup Laubat làm bộ trưởng. Chasseloup Laubat công khai tuyên bố phải biến xứ Nam Kỳ thành một Philippines thứ hai tại Á Châu. Nói cách khác, biến Nam Kỳ thành một xứ Công giáo là một giải pháp tốt nhất để ổn định thuộc địa một cách lâu dài.
Như vậy rõ ràng là quan điểm của bộ Hải Quân và Thuộc Địa của chính quyền Pháp coi việc Công giáo hóa Nam Kỳ là một nhu cầu chính trị (TSCGP, trang 123).  Để thực hiện mục tiêu này, bộ Hải Quân và Thuộc Địa Pháp đã đưa ra hai quyết định sau đây:
1. Chính quyền Hải Quân Pháp nhận trách nhiệm thành lập một hệ thống các giáo xứ Công Giáo tại Nam Kỳ.
2. Các giáo sĩ thừa sai Pháp được coi là những công chức phục vụ nhà nước nên họ được hưởng lương hàng năm. Năm 1864, nhà nước thuộc địa Pháp đã trả cho các giáo sĩ thừa sai 40,000 Francs; năm 1879 tăng lên 145,000 Francs. (TSCGP, trang 134-135).

 C./Các giáo sĩ thừa sai tích cực giúp thực dân Pháp mau chóng bình định lãnh thổ thuộc địa
1.-  Giám mục Puginier (1835-1892):  Dựa vào thế lực mạnh của hội Thừa Sai Paris đối với chính quyền Pháp, giám mục Puginier đã tỏ thái độ coi thường các quan chức thuộc địa tại Việt Nam. Vào tháng 7-1874, giám mục Puginier viết thư mắng đô đốc Dupré đã để cho thuộc hạ là Francis Garnier rút quân khỏi Bắc Việt. Tháng 8-1885, giám mục Puginier đòi tướng Courcy phải bắt Nguyễn Văn Tường bỏ tù. Giám mục Puginier đưa ra chủ trương ổn định thuộc địa bằng cách Công giáo hoá thuộc địa. Y tuyên bố: “ Khi nào Bắc Kỳ biến thành một xứ Công giáo thì nó sẽ là một nước Pháp nhỏ”  (TSCGP, trang 560-562)
Puginier đòi hỏi chính quyền thuộc địa Pháp phải tiêu diệt giới nho sĩ Việt Nam (Văn Thân) vì họ được dân chúng kính trọng, họ không chấp nhận sự đô hộ của Pháp và chẳng ai trong số họ chịu theo đạo.
Năm 1886, giám mục Puginier ra lệnh cho linh mục Trần Lục ở Phát Diệm tăng viện cho Pháp 5,000 giáo dân binh để phá chiến lũy Ba Đình của Đinh Công Tráng.
Giám mục Puginier là người đã để lại nhiều dấu ấn sâu đậm trên chính sách bình định Việt Nam của thực dân Pháp. Chính ông ta đã cung cấp cho Pháp rất nhiều tin tức tình báo do giáo dân khắp nơi thu thập báo cáo về các cuộc phản công của triều đình Huế và các cuộc binh biến của quân kháng chiến.
Puginier chết tại Hà Nội năm 1892. Hắn được chính phủ Pháp truy tặng Bảo Quốc Huân Chương và truy phong Sĩ Quan Danh Dự của quân đội Pháp để xác nhận công lao to lớn của giáo sĩ thừa sai này trong việc Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ hồi cuối thế kỷ 19.

2.-  Giám mục Gauthier (1810-1877) : Gauthier lấy tên Việt là Ngô Gia Hậu, được cử làm giám mục Nam Đàng Ngoài từ năm 1846, có 66,350 giáo dân rải rác trong 346 xứ dạo (TSCGP, trg 528-530).
Trong bức thư gửi đô đốc Dupré ngày 15-1-1874, giám mục Gauthier và Puginier đã thúc giục chính quyền thuộc địa Pháp thiết lập một chính phủ Công giáo tại Bắc Việt (theo “Christianisme et Colonialisme au Vietnam 1857-1914 par Cao Huy Thuần – Paris 1960, p. 306).
Năm 1874, Gauthier khuyến khích các làng Công giáo tổ chức các đội dân quân võ trang, sau đó ra lệnh cho họ kéo quân đi đánh phá các làng bên lương ở Nghệ An và Hà Tĩnh.
Giám mục Gauthier và Puginier có nhiều  tên đệ tử trung thành xuất sắc, trong số đó có Nguyễn Trường Tộ (theo hầu Gauthier 10 năm) và hai linh mục Nguyễn Hoằng và Nguyễn Điều.

 II.Tội Ác bán nước theo giặc của Giáo hội Công giáo Việt Nam trong nửa cuối thế kỷ 19

            Vào nửa cuối thế kỷ 19, có khoảng 600,000 người Việt Nam đã mù quáng đi theo tôn giáo lạ mang tính chất vong bản. Họ đã dễ dàng lìa bỏ nếp sống văn hóa truyền thống của dân tộc. Tuy nhiên, trước khi Pháp đổ quân xâm chiếm Việt Nam, những người Công giáo được coi là những công dân lầm lạc vì nhẹ dạ và ngu dốt nên Triều Đình và nhân dân Việt Nam không nỡ ra tay tiêu diệt họ. Nhưng kể từ khi Pháp chiếm Đà Nẵng năm 1856, đa số giáo dân Công giáo đã trắng trợn ra mặt theo giặc và phản bội Tổ Quốc.
Hiện tượng đầu tiên là nhiều ngàn giáo dân rời bỏ Bắc Kỳ kéo vào Đà Nẵng xin đi lính tập cho Pháp. Đô đốc Rigault de Genouilly tiếp nhận họ tại Sơn Trà và huấn luyện họ tại đây. Sau đó, Genouilly đã tuyển chọn 6000 người trong số họ để nhập vào liên quân Pháp-Tây Ba Nha đánh chiếm Saigon.
Trong công cuộc xâm chiếm và bình định Việt Nam, thực dân Pháp đã được giáo hội Công giáo Việt Nam hỗ trợ tích cực mọi mặt. Trong số các tín đồ Việt gian, có những nhân vật rất nổi tiếng sau đây :

            Tổng Đốc Phương, tức Đỗ hữu Phương, sinh năm 1844 tại Saigon, nguyên chủng sinh tại Penang, thông thạo tiếng Pháp, được Pháp chọn tham gia phái đoàn của Pháp trong cuộc thương lượng với triều đình Huế năm 1868. Sau đó Phương tham gia các cuộc tảo thanh chống Nguyễn Trung Trực tại Rạch Giá. Năm 1872, Phương được Pháp thăng chức tổng đốc Saigon.
Trần Bá Lộc, sinh năm 1834 trong một gia đình Công giáo tại Long Xuyên. Lộc xin vào đoàn quân Công giáo do Charner tổ chức chuyên việc lùng quét các nhóm quân kháng chiến. Sau khi tham gia nhiều trận đánh tái chiếm Rạch Giá, Lộc được Pháp phong chức tổng đốc Rạch Giá. Y là tên đại Việt gian được Pháp tín nhiệm trao nhiệm vụ triệt hạ phong trào kháng chiến từ Quảng Nam đến Phan Thiết. Với nhiệm vụ này, Trần Bá Lộc đã giết hại khoảng 25 ngàn người Việt yêu nước.

            Trần Tử Ca, nguyên là một người bên lương, sinh trưởng tại Gò Vấp. Lúc đầu y đi theo kháng chiến, nhưng sau đó y theo đạo, rời bỏ hàng ngũ kháng chiến theo giặc chống lại Tổ Quốc. Năm 1862, Ca được Pháp bổ làm tri huyện Hóc Môn. Năm 1865, y đi theo quân đội Pháp càn quét các tỉnh miền Tây. Đêm 9-2-1885, Ca bị nghĩa quân giết chết .

            Huỳnh Công Tấn  là một người Công giáo trong hàng ngũ nghĩa quân của Trương Công Định từ 1861. Ngày 20-8-1864, Tấn phản bội, bất thần phục kích giết chết  Trương Định tại Gò Công. Ngày 19-9-1868, Huỳnh Công Tấn cùng với 127 lính tập Công giáo vây bắt Nguyễn Trung Trực tại đảo Phú Quốc. Như vậy, riêng một mình y đã sát hại được hai nhà cách mạng kháng chiến nổi tiếng tại Nam Kỳ. Y được Pháp trao tặng Bắc Đẩu Bội Tinh cho hai chiến công lớn này !

            Tạ Văn Phụng, tức Phêrô Lê Duy Phụng, nguyên chủng sinh tại Penang, lấy danh nghĩa là con cháu nhà Lê dấy binh khởi nghĩa tại Bắc Kỳ chống triều đình Huế năm 1858. Tạ Văn Phụng nhờ các giáo sĩ liên lạc với chính phủ Pháp để xin giúp đỡ. Napoleon III đồng ý, và cử tên gián điệp Duval sang Việt Nam giúp Phụng với mục đích biến Bắc Kỳ thành một xứ Công giáo với một chính quyền Công giáo. Duval đi Macao mua vũ khí và giúp Phụng thành lập những đoàn quân gồm đa số là giáo dân. Trong các tháng 6 và 7-1863, Phụng khởi quân đánh chiếm một vùng rộng lớn ở đồng bằng Bắc Bộ gồn 3 tỉnh Quảng Yên, Hải Dương và Nam Định.Triều đình Huế cử Nguyễn Tri Phương đem quân ra Bắc dẹp loạn. Tạ Văn Phụng bị bắt đem về Huế xử tử.

            Vài điều trình bày trên đây chỉ là bản phác họa một cách trung thực những  giai đoạn của Việt Nam  vong quốc sử hồi nửa cuối thế kỷ 19. Đây là điều cần thiết để nhắc nhở toàn dân Việt Nam phải luôn luôn đề cao cảnh giác phòng ngừa những thế lực ngoại bang cùng tay sai bản địa lấy danh nghĩa tôn giáo để xâm lăng chủ quyền và phá hoại nền văn hóa cổ truyền của dân tộc.
Riêng đối với Vatican và Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, hai tổ chức này không thể phủ nhận trách nhiệm trong việc họ đã cấu kết với thực dân Pháp chống lại nước Việt Nam gần một thế kỷ (từ giữa tk 19 dến gần giữa tk 20). Gần đây, Giáo Hoàng đã thú nhận những tội lỗi của Vatican đối với nhiều quốc gia và dân tộc trên thế giới. Còn bao giờ thì Giáo hội Công giáo Việt Nam mới lên tiếng tạ tội với dân tộc về những lỗi lầm trong quá khứ đối với Tổ Quốc ?
Các bạn Công giáo Việt Nam: để tỏ tình dân tộc, các bạn  cần áp lực  Giáo Hội Công Giáo Việt Nam tách hẳn khỏi ảnh hưởng của Vatican (như Anh Quốc đã làm trước đây, và Trung Quốc đang làm). Tại sao các bạn không thể  “hiệp thông thẳng với Chúa” mà không cần trung gian của Vatican hay cái giáo hội tay sai của Vatican ?

  Charlie Nguyễn - Sept 2003 - Tìm tag: Hồ sơ tội ác của Thiên Chúa Giáo

Monday, May 7, 2012



Con cóc Liên Thành
                
 Trần Việt

                         Chuyện về con cóc Liên Thành:
            Tôi không biết ai là tác giả bài thơ “Con Cóc” sau đây, nhưng “hoạt động” của con cóc  nầy rất gần với Liên Thành. Nếu tôi nhớ không nhầm, thì bài thơ như sau:
                                    Con cóc trong hang,
                                    Con cóc nhảy ra.
                                    Con cóc nhảy ra,
                                    Con cóc ngồi đó.
                                    Con cóc ngồi đó,
                                    Con cóc nhảy đi!
            Quả vậy, Liên Thành đào ngũ tại mặt trận trước ngày 30.4.1975. Sau khi ra tới hải ngoại, tình thế tạm yên (Liên Thành trong hang) Liên Thành bèn cùng với Liên Bằng lập ra cái gọi là Cường Để foundation để chuản bị cho project lường gạt những đồng bào tỵ nạn cộng sản tại Hồng Kông với số tiền lên đến hàng triệu Mỹ kim ( Liên Thành nhảy ra). Nội vụ bị phanh phui đổ bể Liên Thành đành im lặng (Liên Thành ngồi đó). Bẳng đi thời gian khá dài (Liên Thành nhảy đi, tức là nhảy vô hang lại), Rồi Liên Thành tái xuất hiện với tập Biến Động Miền Trung” (BĐMT) do các ông Nguyễn văn Học, Trần Tiển San biên soạn hổ trợ, Nguyễn ngọc Chấn giới thiệu trên youtube, cựu tướng Nguyễn khắc Bình chạy đôn chạy đáo để vận động người viết bài khen thưởng, và chủ tọa buổi ra mắt sách cho Liên Thành, cựu Đại tá CSQG Trần minh Công viết bài ca ngợi BĐMT là tập tài liệu, Diễn đàn Ba cây trúc đăng lại và viết bài ca ngợi tập BĐMT, thời gian đầu có TS Hồng Lĩnh và Mathew Trần chạy hiệu quảng cáo.(Liên Thành lại từ trang hang  nhảy ra). Đã bị đẩy phải nhảy ra, Liên Thành buộc phải múa may chứ không thể “ngậm miệng cóc được, “ người ta” bèn dàn dựng ra phương tiện và ban bệ để vừa hổ trợ, vừa điều khiển Liên Thành và thế là có thêm cái gọi là Diễn đàn “nói thật, nói thẳng” xuất hiện với viên chỉ huy cấp trên trực tiếp của Liên Thành là Phạm trọng Luật tức Joseph Phạm, bí danh là chính khí Việt, lực lượng nầy còn tăng phái thêm csqg<phudacuy, Tuan Phan, tieudietcs, Đặng Phúc, đặc biệt có thêm  Hàn Gian Trần lệ Tuyên. Vì dân tỵ nạn từ từ nhận diện ra được Liên Thành chỉ là con cóc, “người ta” lại gởi thêm viện quân là Trần văn Ngà, Trần trung Chính….Điểm lại những thành phần từ tổ chức đến nhân sự, cũng như tuần tự các sự kiện, những người có quan tâm không thể không nghĩ rằng đã có sự bắt tay giữa nhóm Giao Điểm, dư đảng Cần lao và cũng không loại trừ có nhúng tay của cộng sản. Nếu đủ can đảm để nghe những lời nói, để đọc những bài viết, để xem những youtube của nhóm người nầy, chúng ta dễ dàng để nhận biết họ có chung một kẻ thù mà họ tìm mọi cách và với mọi giá là phải tiêu diệt cho bằng đuợc là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) dưới sự lãnh đạo của Đức Đệ V Tăng Thống Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ.
            Dưới cây gậy chỉ huy của các thế lực trên, với sự tiếp tay của các cá nhân ưa gây cảnh “gió tanh mưa máu”, Liên Thành vẫn thất bại, thế là Liên Thành đành phải nhận lịnh nhảy về lại trong hang ẩn núp chờ thời.
            May quá, cơ hội lại đến để Liên Thành lại được nhảy ra. Cơ hội đó là Văn Phòng II Viện Hóa Đạo GHPGVNTN (VP2/VHĐ) tổ chức Đại Lễ  Phât Đản Sinh vào các ngày 27, 28 và 29  tháng 4 năm 2012 nhằm vào các ngày 6, 7, 8 tháng 4 Âm lịch Phật lịch 2556 tại chùa Điều Ngự trụ sở của VP2/VHĐ. Lấy cớ tháng Tư kỷ niệm mất nước, Liên Thành gởi đến Hòa Thượng Thích Viên Lý lá thư để gây chiến

A/ Mở đầu là thư Liên Thành viết:
“Thưa Thầy Viên Lý
Tôi xin tự giới thiệu tôi là Liên Thành, một Phật Tử xuất thân trong một gia đình có truyền thống và liên hệ đến Phật Giáo lâu đời, bởi lẽ Ngài Đệ I Tăng Thống Thích Tịnh Khiết tôi gọi bằng ÔN vì Ôn là anh ruột của Bà nội tôi là Phu Nhân của Đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để một nhà Cách Mạng Việt Nam, ông là cháu đích tôn đời thứ sáu của Thế Tổ Cao Hoàng Đế Gia Long. Chúng tôi thuộc huyết thống chính thống của ngài Đông Cung Anh Duệ Hoàng Thái Tử Đại Nguyên Soái Nguyễn Phúc Cảnh. Ngoài ra trong đại gia đình chúng tôi có ông Tráng Đinh anh em chú bác ruột với phụ thân tôi là Trang Cử, ông Tráng Đinh đã cùng với Bác Sĩ Lê Đình Thám đứng ra thành lập Hội Phật Giáo tại Trung Việt thời kỳ Pháp thuộc mà sau nầy chính ông Trí Quang đã vào học giáo lý tại đây.
Trong đại gia đình tôi còn có Đại Lão Hòa Thượng Thích Chơn Trí tôi gọi bằng ÔN Chú, và anh tôi tên tục danh là Liên Phú là Đại Lão Hòa Thượng Thích Chơn Kim hiện trù trì tại một ngôi chùa vùng Đơn Dương, Đà Lạt, Việt Nam.”

            Tại phần mở đầu nầy Liên Thành có hai dụng ý:
      1/ Tự xác nhận Liên Thành là một Phật tử.
      2/ Bắt chước Tào Tháo khi bị Quan vân Trường bắt sống và sợ bị giết chết, Tào Tháo đã khóc lóc kể lể. Cũng như thế, Liên Thành kể lể về tiền nhân của Liên Thành, những người mà Liên Thành nghĩ rằng Liên Thành có thể nhờ cậy vào nhân thân của họ để từ đó bộ mặt Liên Thành đỡ bớt đi phần nhem nhuốc.
         Chúng tôi thẳng thắn nói với liên Thành:

     I/ Liên Thành không thể và chưa bao giờ là Phật Tử: vì trong tập BĐMT Liên Thành xác nhận:
        a/ Bấp chấp luật pháp, Liên Thành giết người bừa bãi (trg 119 BĐMT)
        b/ Là Phật Tử, - trừ “Phât tử” mà Cần Lao dùng làm cây kiểng trang hoàng cho chế độ Ngô triều, thì không ai không biết và không xót xa vì Phật Giáo bị chế độ gia đình trị tiêu diệt.
       c/ Là Phật Tử, không ai dám dùng ngôn ngữ mất dạy để nói đến các bậc cao tăng như Bồ tát Thích Quảng Đức và Đại lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ.
       d/  Là Phật tử Liên Thành không thể vu cáo Chùa Điều Ngự trụ sở của VP2/VHĐ/
GHPGVNTN là hang ổ cộng sản.

    II/ Liên Thành đem phân cọp ra dọa: Liên Thành liệt kê danh sách những người trong gia đình Liên Thành có truyền thống Phật tử và có công là;
            a/ Đức Đệ I Tăng Thống: Đây là nhân vật Liên Thành dựa vào để mạnh miệng chưởi Phật giáo. Dĩ nhiên, sự liên quan “huyết thống” không có giá trị để định vị tư cách, phương chi Liên Thành “ngơ ngác” nhìn bậy. Liên Thành thuộc loại “thấy sang bắt quàng làm họ!”. vì bà nội của Liên Thành khi thì em bạn dì ruột của Đức Đệ I Tăng Thống (thư Liên Thành gởi Hòa Thượng Quảng Độ và GS Võ văn Ái). Khi là chị Đức Đệ I Tăng Thống ( tập san Phụng Hoàng số Xuân Canh Dần 2010 dưới tiêu đề “Trả lời chất vấn trong bài viết về Trịnh công Sơn“ trang 59) và trong bức thư hôm nay thì bà nội Liên Thành lại là Em ruột của Đức Đệ I Tăng Thống. Vậy Liên Thành có bao nhiêu bà nội? Điều nầy đã xác minh rằng hoặc kẻ viết bài nầy không phải là Liên Thành, hoặc Liên Thành là con vô thừa nhận được ông Tráng Cử nhặt về nuôi nên không biết huyết hệ gần, hoặc Liên Thành không có khả năng để biết mình muốn viết cái gì, hoặc Liên Thành là tên chuyên hành nghề chưởi mướn để kiếm ăn nên vì say máu chưởi, Liên Thành đã biến thành kẻ ngu ngơ mất trí!
            b/ Tổ tiên của Liên Thành: Liên Thành lại mê muội khi nghĩ rằng lịch sử Việt Nam phải mang ơn Tổ tiên Liên Thành. Trong loạt bài “Chuyện Bất Đắc Dĩ Phải nói Với Liên Thành:, chúng tôi đã trưng dẫn nhiều bằng chứng để xác nhận:
                        1/ Ông Nguyễn phúc Ánh: con người xem ngai vàng hơn Tổ quốc và đó chính là di họa về sau cho Tổ quốc chúng ta. Ông ta là kẻ tàn ác, ty tiện và hèn hạ khi trả thù nhà Tây Sơn. Đặc biệt ông Thế Tổ cao Hoàng Đế Gia long của Liên Thành lại là thánh tổ cướp biển (tức hải tặc) của Việt Nam.
                        2/ Ông Hoàng Tử Cảnh: chỉ là một thứ con tin mà cha ông Nguyễn phúc cảnh tức Nguyễn phúc Ánh ký gởi để xin viện trợ của thực dân Pháp. Ông Nguyễn phúc Cảnh là người mê muội nghe lời Giáo sĩ Thiên Chúa giáo miệt thị tổ tiên của ông ta là bọn ma quỷ. Nguyễn phúc Cảnh là một tín đồ Thiên Chúa Giáo nhưng hèn nhát sợ không được nối ngôi mà tạm chối bỏ Chúa của y đương.
                        3/ Ông Cường Để: qua những tài liệu và nhận định thì ông Cường Để không phải là nhà cách mạng. Ông Cường Để có mặt trong hàng ngũ cách mạng cũng vì tham vọng muốn làm vua và cũng nhờ vào vị trí hoàng tộc mà các nhà cách mạng bồng lên tương tự như Liên Thành nhờ con ông Tráng Cử một đảng viên Đại Việt tại Huế mà leo lên chức chỉ huy ngành CSQG/VNCH Thừa Thiên Huế. Ông Cường Đế không có khả năng nên khi cụ Phan bội Châu bị Hồ chí minh bán cho thực dân Pháp thì ông Cường Để cũng đành thúc thủ.
                        4/Liên Thành khoe thêm :  Liên Thành không quên đem bác là Tráng Đinh và anh là ông Liên Phú tức HT Thích Chơn Kim . Nhưng Liên Thành lại bất lương khi che dấu:
- Ông Chơn Kim chính là người phụ trách việc mang bàn thờ xuống đường mà Liên Thành cho rằng đó là cộng sản.
-Ông Chơn Kim hiện không phải là thành viên của GHPGVNTN mặc dù trước 1975 ông ta là thành viên cao cấp. Hiện nay, ông Chơn Kím ung dung không bị bọn cộng sản quấy rầy, sách nhiễu thì chúng ta đoán được vị trí của ông Chơn Kim đối với nhóm Phật giáo quốc doanh rồi.
-Ông Chơn Kim có người em là dược sĩ Liên Bảo (có tên trong phái đoàn dự tính gởi ra Bắc để xin được đầu hàng). Theo nguồn tin từ giới thông thạo tin tức không muốn minh danh thì, Liên Bảo chính là kẻ lợi dụng sự thiệt thà ngay thẳng của chư tăng ni để sang đoạt số tiền mà ông dùng để đóng tàu hàng hải .
                              -Theo ông Hương Lê GS trường Bán Công Huế thì ông Tráng Liệt là bác ruột của Liên Thành thì:”Năm 1955, ông Tráng Liệt có nhà in ỏ Huế (phía trên cửa Thượng Tứ, gần bến xe Nguyễn Hoàng. Ông ta có dính líu vào vụ Phong Trào Hòa Bình, người ta cho là thiên Cộng, BS Quyến, Nguyễn Hũu Ba, Lê Quang Vinh, Cao cu Phuc, Võ đình Cường, Dương Tiềm, v.v... bi bắt.
                            -Và theo ông Nguyễn phúc Sơn  là con ông Tráng Thông, anh em thúc bá của cha Liên Thành (Tráng Thông, Tráng Đinh là con của Cường Trực, Cường Trực là anh ông Cường Để) vốn là mật thám của thực dân Pháp, sau lại là điệp báo cho cộng sản. Gia đình Tráng Thông đều là cán bộ cao cấp và giàu có hiện tại của cộng sản.
            Như vậy, Liên Thành không phải là Phật tử mà chỉ là tên chưởi mướn để kiếm ăn.. Tổ tiên của Liên Thành là thuộc loại “tranh bá đồ vương” rất tàn ác dã man, chẳng có gì đáng để Liên Thành khoe mẻ. Gia tộc anh em Liên Thành đa phần hoạt động trong hàng ngũ cộng sản, hoặc loại người cần phải cẩn thận khi giao tiếp như Liên Thành, Liên Bằng, Liên Phú và Liên Bảo.

B/ Liên Thành xác định tư cách của Liên Thành: Liên Thành viết:“xin mạn pháp hỏi thầy không hề có ác ý và đánh phá tôn giáo của tôi là Phật Giáo như từ trước đến nay bọn côn đồ và Việt gian cộng sản nằm vùng tại hải ngoại thường vu khống tôi là đánh phá Phật Giáo và là dân Công Giáo Cần lao….với  tư cách là một Phật Tử, với tư cách là một người lính VNCH và một Cảnh Sát Quốc Gia VNCH ….”

            Đoạn nầy Liên Thành xác định:
           1/ Liên Thành là Phật tử.
           2/ Liên Thành bị vu khống.

           Ý kiến chúng tôi:
            1/ Liên Thành là Phật Tử, Phật Giáo là tôn giáo của Liên Thành, thì như chúng tôi đã kính trình ở phần trên Liên Thành chưa bao giờ là Phật tử. Khi Liên Thành dùng lời lẻ tên vô lại mất dạy để nhục mạ Đức Bồ Tát Thích Quảng Đức là Liên Thành thi hành mệnh lệnh của dư đảng Cần Lao tuyên chiến với Phật giáo. Khi Liên Thành tuân theo chỉ thị của tên Chính Khí Việt chưởi Đức Đệ V Tăng Thống Thích Quảng Độ thì Liên Thành đã xem GHPGVNTN là kẻ thù. Chùa Điều Ngự là VP 2/VHĐ, nơi sinh hoạt Phật giáo của hầu hết những Quân nhân, Cảnh sảt QG., viên chức, đảng phái chính trị Quốc Gia, đồng bào tỵ nạn cộng sản, nơi thờ linh vị những vị tỵ nạn cộng sản đã quá cố trong đó có cả Tướng Lãnh, Sĩ Quan và viên chức cao cấp thuộc chính quyền Quốc Gia Việt nam., nơi phát xuất những cuộc đấu tranh chống Việt cộng, nơi kêu gọi tẩy chay hàng hóa của Tàu cộng, nơi vạch rõ tội ác xâm lăng và giết người của Tàu cộng, tội ác bán nước của Việt cộng. Thế mà Liên Thành vu cáo chùa Điều Ngự là hang ổ cộng sản. Vậy Liên Thành là ai nếu không phải là tay sai cho Việt cộng hay Tàu cộng?
            2/ Thế là đã đủ điều kiện để đi đến kết luận Liên Thành là tên chuyên viên chưởi mướn cho Cần lao, tay sai cho Việt cộng và Tàu cộng. Sống trong xã hội tự do, mọi người đều có quyền đồng ý hay không đồng ý về ý kiến của bất kỳ ai, kể cả Tổng Thống. Mọi người đều có quyền phản đối Liên Thành, nhưng chưa thấy ai dùng thậm từ như Liên Thành đã dùng đối với chư vị Tôn túc Giáo phẩm Phật giáo. Như vậy chữ Liên Thành dùng như côn đồ,Việt gian cộng sản nằm vùng  thì Phật Tử tỵ nạn trả lại cho  Liên Thành
            3/ Liên Thành là người lính VNCH, nhưng là tên lính đào ngũ, bỏ chạy trước địch quân trong khi lâm trận. Liên Thành làm úa bẩn màu áo trận. Liên Thành đã không biết xấu hổ với tội danh đào ngũ. Lấy tư cách gì mà Liên Thành lớn lối để nhân danh người lính. Liên Thành không bao giờ là Cảnh Sát, Liên Thành mặc áo cảnh sát là nhờ thời cơ may mắn. Cảnh sát là viên chức công lực, thi hành và tôn trọng luật pháp quốc gia. Liên Thành đã bất chấp luật pháp tự ý giết 8 mạng người, Liên Thành đã hèn nhát không cứu người khi có thể cứu, Liên Thành sử dụng phương cách lưu manh gian ác khi đem gái làng chơi có bịnh hoa liểu để cho phạm nhân thực hiện trò tồi bại, Liên Thành che dấu tội phạm anh em của Liên Thành như các ông: Chơn Trí, Tráng Liệt, cha con ông Tráng Thông những kẻ hoạt động cho cộng sản. Tội ác như thế thì làm sao Lực Lượng CSQG/VNCH chấp nhận được trừ phi bị áp chế bắt buộc.

C/ Liên Thành đòi chất vấn Hòa Thượng Thích Viên Lý: Đến đoạn Liên Thành “chất vấn” Hòa Thượng Thích Viên Lý thì thật là trò hề rẻ tiền,và bỉ ổi. Thầy Viên Lý và những thành viên trong chùa cũng như đa số khách ghé thăm chùa Điều Ngự không những đã thấy thảm cảnh ngày mất nước mà còn là nạn nhân cộng sản, là tù nhân chính trị, là những chiến sĩ chiến đấu cho mãi đến hôm nay. Còn Liên Thành là tên lính đã đào ngũ, tên hèn mạt bỏ đồng đội để trốn chạy, ra xứ người lại giở trò ma bùn lường gạt người tỵ nạn tại trại tỵ nạn thì Liên Thành là loại người nào?, chắc Liên Thành không đến nổi quá tối dạ mà không biết Liên Thành thuộc thành phần đang chờ bị truy tố!. Quả thật, da mặt của Liên Thành quá dày.

D/ Liên Thành viết tiếp:” Hiện nay dư luận trong cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản tại hải ngoại tất cả đều không thuận ý về việc thầy  tổ chức ngay đại lễ Phật Đản vào ngày 27,28,29 và có hai nguồn dư luận như sau:
1) Hoặc là vì vô tình đã đưa đến hành động vô ý thức,  thầy tổ chức đại lễ Phật Đản  vào những ngày 27,28,29 tháng 4  là những ngày đau buồn nhất của dân tộc, những ngày mà miền Nam Việt Nam trong cơn hấp hối, những ngay miền Nam Việt Nam sắp rơi vào tay bọn cộng sản hung tàn.
           2) Hoặc đây là một hành động đã được bọn cộng sản Việt Nam sắp xếp trước và được thi hành bởi đám tay sai Việt gian tại hải ngoại nhằm xóa tan NGÀY QUỐC HẬN 30 THÁNG 4.

            Ý Kiến chúng tôi:
                   a/ Dư luận nào mà Liên thành trơ trẻn gọi là tất cả không đồng ý, ngoại trừ phe đảng của Liên thành, hay những kẻ có điều kiện về truyền thông, tuy mang danh hành nghề truyền thông nhưng lại mang tâm địa kẻ bất lương, muốn chứng tỏ “quyền lực” để hù dọa, để kiếm quảng cáo. Nhưng tội nghiệp cho Liên Thành số nầy dù đã cố gắng phồng mang trợn mắt vẫn không đe dọa được ai. Bằng chứng rằng trong Đại lễ Phật Đản tại chùa Điều Ngự tính trung bình cũng lên đến khoảng con số năm hay sáu ngàn người tham dự kể cả các Dân Biểu Quốc hội, Chính quyền, thuộc cả ba ngành Hành Pháp. Lập pháp và Tư Pháp thuộc các cấp từ trung ương đến địa phương, các Ứng cử viên, nhà giáo, các đảng phái chính trị, Chức sắc các tôn giáo bạn. Có thật dư luận không đồng ý? Khả năng tình báo của Liên Thành về hoạt vụ và tiên liệu như thế sao? khả năng thăm dò và lượng giá của Liên Thành là thế ư? Thế mà Liên Thành lúc nào cũng to mồm xưng là “chuyên viên tình báo”. Hèn gì cộng sản vào thành phố Huế như vào chổ không người và tự do giết dân?
                 b/ Liên Thành là học sinh thi rớt Tú tài I đâu đủ khả năng để tra hạch một vị tu sĩ có học vị Tiến Sĩ, lãnh đạo khối tín đồ Phật giáo hải ngoại, rồi hồ đồ phát biểu rằng  Hòa Thượng Viên Lý hoặc vô tình hoặc vô ý thức. Thật là kẻ ngốc nghếch ngu dốt. vô tài không đức mới dám có những lời thô lỗ u muội, thật đáng được người bỉ tiếu.
            Liên Thành đáng được bọn chủ thuê mướn trả công khi không bao giờ quên câu vu vạ mà bọn nầy muốn Liên Thành phải phun nọc bẩn là vu cáo Phật giáo là cộng sản!

E/ Liên Thành đe dọa:  Liên Thành ngông nghênh viết:”Bản chất tôi vốn dĩ chưa bao giờ lùi bước trước bất kỳ một hăm đọa và áp lực nào và luôn đứng về lẽ phải, đứng với chiến tuyến những người Việt quốc gia chống lại  cộng sản Việt Nam hung tàn và những tên đê hèn Việt gian, vì vậy với đôi lời thô thiển mong được thầy trả lời cho những thắc mắc mà tôi vừa  nêu trên, không những cho cá nhân tôi mà còn rất nhiều người đang chờ đợi lắng nghe lời giải thích của thầy.”

            Ý kiến chúng tôi: Đến đây thì thú thật không thể nào ngưng được nụ cười khinh bỉ dành Liên Thành:
            1/ Cho đến nay, chẳng ai thèm hăm dọa hay áp lực gì với Liên Thành, vì Liên Thành chỉ là kẻ chưởi mướn để kiếm ăn. Liên Thành hành nghề hạ tiện như thế thì có ai rãnh hơi để đi hăm dọa con người mạt hạng, tận cùng tầng lớp bất lương! Liên Thành tưởng người ta đã quên Liên Thành trốn cộng sản tại quận Hương thủy trong lúc một số quân nhân, CSQG, Xây Dựng Nông Thôn, Nghĩa quân… tìm đường trở về trình diện tại Mang cá để cầm súng chiến đấu!
            2/ Chắc chắn bọn chủ của Liên Thành đã có sẳn trong tay hình ảnh ngày đại lễ Phật Đản rồi. Đây chính là sự trả lời dứt khoát và minh bạch cho Liên Thành và những bóng ma mà Liên Thành đem ra để hù dọa.
           
                         Chuyện về hai ông cậu của con cóc:
            Nhân gian có câu “con cóc là cậu ông trời”, huống chi hai ông nầy lại là cậu của con cóc.Liên Thành. Hai ông nào vậy?
             Xin thưa là cậu thứ nhất của con cóc Liên Thành là ông Du Miên, và cậu thứ hai của con cóc Liên Thành là ông Phan kỳ Nhơn.

            1/ Ông Du Miên: Trước lễ Phật Đản ít ngày, sau khi những công tác Phật sự cho ngày đại lễ gần như hoàn chỉnh thì ông Du Miên dẫn độ con cóc Liên Thành lên đài truyền hình 57.3 mà Du Miên là xướng ngôn viên chính. Sau một hồi con cóc Liên Thành tố nhăng nhít, đến màn những con gà mồi gọi vào. Chúng tôi không thể tưởng tượng được một người thường khoe khoang là nhà báo lại có cung cách như thế. Sau ít phút suy nghĩ tôi mới hiểu được tư cách của một ông cựu chủ nhiệm một tờ tuần báo đã  đến những cơ sở kinh doanh và đã “nhẫn nại” để xin cho bằng được quảng cáo, tôi mới hiểu được tư cách và phẩm giá của một ông chủ nhiệm tờ tuần báo đã cắt nguyên những bài báo từ những tờ báo khác để làm đầy tờ báo của mình để khỏi phải trả tiên nhuận bút. Và bây giờ tôi đã hiểu thêm tư cách của một người viết sách đã lợi dụng tâm lý và làm thỏa mản tâm lý tôn kính tổ tiên và tự ái dân tộc để mời chào bán quyển sách nghe tiêu đề thì thật kiêu, mà mà nội dung là chừng một nữa là chữ Tàu, chẳng ai hiểu gì cả!
            Sau đó, nghe nói ông Du Miên có yêu cầu Thầy Viên Lý lên đài của ông ta để giải thích. Nếu quả như thế, thì ông Du Miên đã lộ nguyên hình là kẻ chờ chực cơ hội, để hù dọa và khai thác sự kiện. Nhưng ngtười dân tỵ nạn đã thay Hòa Thượng Thích Viên Lý để trả lời cho ông rồi.
            Tuy nhiên, với tôi, ông Du Miên khá hơn Liên Thành, nên có đôi lời với ông:
             a/ Nếu ông Du Miên có tấm lòng ngay thẳng và thiện chí, thì trước khi ông Du Miên dẫn Liên Thành lên chương trình của ông, ông liên lạc với Hòa Thượng Thích Viên Lý để tìm hiểu những chuyện mà ông chưa biết, sau đó ông cho biết Liên Thành sẽ nói  chuyện và đồng thời cũng để dành cho Hòa Thượng một thời lượng tương đương để trình bày. Đừng nên chơi trò dùng tên tuổi của nhân vật lớn và những vấn đề lớn để câu khách, nó hạ tiện lắm.
            b/ Với trình độ và tư cách của Liên Thành thì không có gì để phải cúi xuống nói nữa. Nhưng với trình độ như ông Du Miên thì ông phải biết phân biệt ngày vui (happy day) với ngày lễ kỷ niệm (anniversary day). Hơn nữa, Chùa Điều Ngư vốn là VP2 của Viện Hóa Đạo GHPGVNTN, một tổ chức mà cộng sản ra công đàn áp và tiêu diệt. Những tín đồ thường lui tới phụ việc và chiêm bái cũng như những linh vị thờ tại chùa đều là những người từng phục vụ dưới cờ VNCH và thậm chí có những vị từng là những chỉ huy cao cấp của VNCH. Nơi đây nhóm Liên Thành dưới sự điều khiển của tên Phạm trọng Luật tức Joseph Phạm tức chính khí Việt đã dùng nhiều ngôn từ hạ cấp để chưởi rủa những tăng sĩ cao cấp của GHPGVNTN, chúng không từ nan dù là  đại lão Hòa Thượng Đệ V Tăng Thống hay Bồ tát Thích Quảng Đức!
           Hơn nữa, nhân ngày đại lễ Phật Đản, Phật Giáo đồ nhìn lại những chặng đường đã qua mà Phật giáo đã đồng hành với Dân Tộc. Thảm nạn của quê hương cũng chính là thảm nạn của Giáo Hội. Phật tử cùng với mọi con dân việt chịu cảnh nước mất nhà tan, đã từng bị tù đày, nay đang ưu vong. Đồng thời Phật tử cũng bị mất đi những mái chùa, những vị cao tăng lãnh đạo tinh thần,  có vị chết bởi cộng sản tra tấn, có vị phải vào tù, phải vượt biên; nghĩa là cùng chịu chung ách nạn cộng sản. Phật Tử không hận thù, nhưng quyết tâm dành lại quê hương và quyền sống cho dân tộc dưới sự lãnh đạo của GHPGVNTN như trong lịch sữ dân tộc Việt Nam đã từng cùng với những Thiền sư ra chiến trường vệ quốc. Vì vậy, quần chúng Phật tử tỵ nạn phải dựng lại mái chùa làm cơ sở vửa tu trì, vừa là nơi tuân thủ sự lãnh đạo của những nhà sư ái quốc. Trong ngày lễ Phật Đản chư Tăng Ni và Phật Tử vẫn cùng nhau đến chiêm bái Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ, Công Viên ghi nhận công Ơn các Vị Anh Hùng hiệt Kiệt và Tượng đài Thuyền nhân , những nạn nhân cộng sản. Vậy Phật Giáo đã làm gì không đúng trong ngày vừa kỷ niệm Đản Sinh của đáng Thế tôn vừa truy niệm vong quốc hận?
            Với ông Du Miên, tôi gởi đến ông câu danh ngôn mà rất tiếc tôi không nhớ tác giả:” Hãy nói cho tôi biết bạn anh là ai, tôi sẽ nói anh là ai!”. Vì vậy, chúng tôi mong rằng cộng đồng tỵ nạn chúng ta không nên có thêm một Liên Thành nữa.

            2/ Ông Phan kỳ Nhơn:Để minh bạch, chúng tôi đăng lại lá thư kêu gọi của ông Phan kỳ Nhơn TM ủy ban chống tuyên vận cộng sản.
Kính gửi: Quí vị Lãnh đạo Tinh Thần các Tôn Giáo
Quí vị Lãnh đạo các Cộng đồng, Hội Đoàn, Tổ Chức
Quí Trung tâm Băng Nhạc, Quí Bầu "Shows",
Quí Trung tâm Văn nghệ, Giải trí
Kính thưa quí vị,
Để tưởng niệm ngày Quốc Hận đau buồn của dân tộc Việt, để tưởng nhớ những chiến sĩ đã bỏ mình trong các trại tù Cs và hàng nửa triệu đồng bào đã hy sinh trên đường tìm tư do, chúng tôi tha thiết kêu gọi quí liệt vị cố gắng tránh tổ chức các buổi lễ lạc có tính cách vui tươi, ăn mừng như đại lễ Phật Đản hoặc các chương trình văn nghệ vui chơi có tính cách giải trí, hài hước vào những ngày cuối của tháng Tư Đen, là những ngày mà miền Nam VN rơi vào tay CS, chiến sĩ và đồng bào đã trải qua quá nhiều mất mát, đau thương, tù đầy gian khổ, cha mất con, vợ mất chồng… và cũng chính vì biến cố tang thương 30 tháng Tư diễn ra trong tháng Tư Đen mà người Việt hải ngoại chúng ta đã phải tha hương, biệt xứ, tỵ nạn ở quê người. Do đó không vì bất cứ lý do nào, chúng ta lại quên đi những ngày đau thương đó để có thể vô cảm, tổ chức những buổi lễ lớn có tính cách ăn mừng vui chơi, giải trí vào tháng Tư Đen này.
Chúng tôi rất mong được quí vị hưởng ứng lời kêu gọi chân thành và thiết tha này.
Xin trân trọng kính chào và cám ơn quí vị.
TM Ủy Ban chống Cộng sản và Tay sai
Ủy Ban chống tuyên vận CS.
Phan Kỳ Nhơn

   Ông Phan kỳ Nhơn, vốn là người năng nổ trong các hoạt động chống cộng, nhưng với điều kiện là ông phải làm chủ tịch, còn nếu không thì “thà ở nhà ” Với tư cách một người dân tỵ nạn, tôi muốn nói chuyện với ông chuyên viên chủ tịch hội đoàn chống cộng:
            1/ Là một vị cựu Thiếu tá, chuyên viên chủ tịch mà ông đánh đồng ngày đại lễ Phật Đản (anniversary) với ngày vui chơi (happy)giải trí, hài hước thì những kẻ như chúng tôi từng bị phải thừa hành và dưới quyền ông và Liên Thành, hôm nay phải mang hận ly hương thì đúng quá. Thật đáng xót sa cho chúng tôi, ngày xưa phải chịu dưới quyền những kẻ mà trình độ hiểu biết bị hạn chế như thế!. Tổ chức Đại lễ Phật đản để nhắc lại ngày quê hương và đạo pháp bị cộng sản tiêu diệt là vô cảm ư? Nhân đại lễ Phật Đản, những người con Phật Việt Nam vừa nghẹn ngào mất nước, vừa nghẹn ngào xúc động chư vị danh tăng bị cộng sản sát hại, những bậc lãnh đạo tối cao chúng tôi bị oan khuất tù đày, Giáo Hội chúng tôi bị cộng sản tiêu diệt và từ đó, chúng tôi nghe những lời giảng huấn từ các bậc lãnh đạo Giáo Hội, chuẩn bị cho một ngày phải đến cho quê hương là vô cảm ư? Ngày lễ Phật Đản, Giáo Hội chúng tôi đến chiêm bái Tượng đài Chiến Sĩ Việt Mỹ, Công Viên ghi công ơn các đấng anh hùng dân tộc, chiêm bái những nạn nhân cộng sản tại Tượng dài thuyền nhân là vô cảm ư? Tôi thật không hiểu lối dùng chữ của ông chuyên viên chủ tịch. Ông là chuyên viên chủ tịch, chắc ông phải hiểu, kể từ ngày quê hương chúng ta bị cộng sản cưỡng chiếm thì không ngày nào là không đau xót, nỗi thống hận luôn canh cánh bên lòng chứ đâu phải chỉ là tháng Tư đen.! Giả dụ, như ông chuyên viên chủ tịch đi về Việt nam để làm đám cưới cho con thì trong lòng ông có gì áy náy không? ông giao thiệp chén chú chén anh với cán bộ cộng sản thì tâm trạng ông chuyên viên chủ tịch ra làm sao, hay chính ông đã vô cảm?.
            2/ Tôi nhớ ông  Câu Tiển, một nhân vật ôm hận vong quốc, ông ta đã nằm trên gai, ông ta dùng  những mũi gai nhọn đâm vào cơ thể, ông ta phải nếm mật đắng mỗi ngày để nghiêm khắc nhắc với chính ông ta rằng, ông ta mất nước và phải phục hận. Còn ông chuyên viên chủ tịch thì sao? Không biết có bao giờ ông về nơi bọn cộng sản còn cầm quyền đang đày đọa dân tộc với tư thế kẻ hãnh tiến, loại áo gấm về làng không? Nếu ông chuyên viên chủ tịch có mặt trong trường hợp nầy thì thật đáng buồn và đáng khinh.

        Nếu hai ông Du Miêm và ông chuyên viên chủ tịch Phan kỳ Nhơn bỏ bớt đi một chút về cái ta, thì chắc chắn sẽ có một số người bớt phải nghe, phải nhìn cảnh gió tanh mưa máu thường hay xảy ra trong cộng đồng tỵ nạn chúng ta, trong đó có chúng tôi.
        Trân trọng có chút ít lời lẻ gởi đến hai ông và dĩ nhiên, chúng tôi không mong muốn  tập đoàn Chính Khí Việt có thêm tên của hai ông.
                                                                                                              Trần Việt