Friday, December 13, 2013




THẦM LẶNG

 NGÔN NGỮ CỦA HÀNH ĐỘNG

 Tống phước Hiến

        Nói đến ngôn-ngữ, thông thường người ta nghĩ ngay đến chữ viết hay lời nói. Nhưng với hoàn cảnh hiện nay, những người tỵ nạn Cộng sản chân chính còn dùng thái độ, hay hành động để bày tỏ quan điểm và sự quyết tâm của mình. Hình thái ngôn ngữ đó được gọi là “ngôn ngữ thầm lặng”.

          Do ý thức và thái độ dấn thân của người xử dụng loại ngôn ngữ không âm thanh, không bút tự nầy mà sinh ra hai dạng thức tạm gọi là im lặng và thầm lặng.

          Im lặng và Thầm lặng không thể bị ngộ nhận là tương đồng. Đây là “ngôn ngữ” riêng của hai nhóm người có cùng một tổ quốc, cùng một hoàn cảnh lịch sử, xã hội, môi trường, và nhất là có cùng một trách nhiệm. Nhưng vì quan điểm, và hoài bão trong cuộc sống khác nhau nên thái độ sống và nỗi ưu tư của họ thường trái nghịch nhau.

           Nhìn khái quát thì hai thái độ, hai cung cách ấy có vẻ giống nhau về ngoại mạo. Nhưng sự thực lại khác xa nhau về những gì thuộc giá trị làm người. Chân dung họ xin được tạm phác họa như sau:

                        A-/ IM LẶNG :

        Im lặng là thái độ của những người dửng dưng không quan tâm, không xúc động đến những sự kiện, những vấn đề có liên quan đến quê hương, đến tôn giáo, đến cộng đồng mà họ là một thành viên. Ðời sống của họ chỉ gói trọn vào tiền bạc, vật chất và hưởng thụ !

          Những vấn đề như: Họ từ đâu, và tại sao đến đây ? Nghĩa vụ đối với Tổ Quốc, trách nhiệm đối với các thế hệ trước và sau họ như thế nào ? Chẳng bao giờ những điều ấy là nỗi suy tư của họ. Như cỏ đá, họ luôn đứng bên lề trách nhiệm. Loại người nầy thường có thái độ trịch thượng, khinh miệt những người chung quanh yếu kém hơn họ, họ thường dùng những lời lẽ khiếm nhã như: chuyện ruồi bu, bọn vô công rỗi nghề, họ dùng bất cứ hình dung từ vu khống, mạ lị nào đó để ám chỉ những người đang hy sinh nhập cuộc, dấn thân vận động cho lịch sử chuyển hóa hầu mang lại lẽ sống và quyền làm người cho đồng bào đang còn bị bọn Cộng sản thống trị (trong đó có thân nhân họ). Nhưng họ rất dễ dàng tay bắt mặt mừng, vui vẻ chuyện trò thân mật, đượm tình “đồng bào” khi một tổ chức hay một kẻ nào đó mà trước đây họ đã không tiếc lời miệt thị, nay tiếp cận với họ, hứa hẹn sẽ cho họ quyền lợi vật chất, hay địa vị xã hội, mà từ đó họ nghĩ rằng sẽ có thể khai thác cho những tư lợi riêng lẻ.

                            B-/ THẦM LẶNG:

        Ðặc tính chung của quần chúng là: “thầm lặng”, không thích bon chen!. Họ rất dè dặt, họ sợ... mất lòng! Họ chỉ muốn có hòa khí tốt để tạo đoàn kết, hầu liên lập thế lực, vì vậy họ xuề xòa, dễ dãi, ưa “chín bỏ làm mười”.

       Tâm lý chung của giới thầm lặng là tìm kiếm và hội nhập với những người cùng có mối quan tâm, cùng có nỗi buồn vui, vinh nhục với Quê hương, với đức tin tôn giáo. Họ tự nguyện nhập cuộc dưới nhiều hình thức và không bao giờ so đo, tính toán thiệt hơn. Việc đóng góp vào công cuộc chung là mệnh lệnh của lương tâm, của luân lý và của lý trí. Họ có mặt ở nhiều nơi, chung vai với nhiều tổ chức, chung tay với nhiều cá nhân cùng có những trăn trở, những thao thức, và cùng có ý thức chung là mong thực hiện điều ước muốn, được tích cực đóng góp phần mình vào đại cuộc.

         Họ đến, rồi ra đi rất bình thường và nhẹ nhàng. Họ tự biết phải làm gì, và với ai trong trường hợp nào.

         Ðiểm đặc biệt nhất của họ là “thầm lặng !”.  

          Vì “Thầm Lặng” là lực lượng không tên, nên ai cũng có thể nhân danh họ, ai cũng có quyền suy diễn họ là "thành phần cơ hữu" của mình. Từ nhận định đó, khi phác thảo kế hoạch hành động thì "Giới Thầm Lặng" luôn được dự liệu là lực lượng xung kích chủ yếu. Qua một vài sự việc thành công vì mục tiêu là công cuộc chung, họ cũng đã “thầm lặng” thông báo:

-Quý vị đáp ứng đúng nguyện vọng của chúng tôi, chúng tôi ủng hộ và hậu thuẫn Quý vị!.                

          Nhưng nếu, cũng những cá nhân ấy lợi dụng sự chân tình của họ cho mục tiêu riêng tư, phi nghĩa thì lập tức họ cũng thầm lặng gởi tín hiệu cảnh cáo những cá nhân, nầy hiểu rằng:

         -Chúng tôi đã biết, chúng tôi có khả năng nhận định, hãy trả lại cho chúng tôi những gì thuộc về chúng tôi!

         Ðấy là lúc họ biểu tỏ lòng tự trọng, sự khiêm ái. Họ là vị quan tòa công minh, và tinh tế.

        Lực lượng “Thầm Lặng” nầy, vì sự thành bại của đại cuộc nên rất chân tình, thiết tha đoàn kết với chiến hữu, đạo hữu. Nhưng họ cũng rất cương quyết, dứt khoát và khi cần thiết, họ lại không thầm lặng trước các thủ đoạn độc ác, gian manh trí trá. Khi sự “thầm lặng” trở mình thành “thịnh nộ” thì chính là cuồng phong ba đào, là sóng thần kết tụ bởi nhiều, rất nhiều những dòng sóng ngầm cuồn cuộn bên dưới dòng thủy lưu. Lịch sử gọi đó là sức mạnh của hồn thiêng Dân tộc.

        Hãy nhớ rằng họ chống cộng vì cộng sản là một tập đoàn sống nhờ và sống bằng gian manh, bất lương. Họ chống cộng hoàn toàn vì trách nhiệm với Tổ Quốc, vì tồn vong của Dân tộc chứ không phải vì hay cho bọn “Phiệt” bất kể là Quân phiệt, Tài phiệt, Thế phiệt hay Trí Phiệt, Quyền phiệt hay Giáo phiệt (Phiệt Duyệt là bản ghi công trạng, vua khen thưởng cho công thần và được treo trước cửa nhà, bên tả là Phiệt, bên hữu là Duyệt để công chúng biết mà kính nể, trọng vọng).

           Quân phiệt, Học phiệt là những thành phần được xã hội trọng vọng. Về sau chính họ hay những thế hệ tập ấm thường cậy công, cậy thế hống hách, sách nhiễu dân lành gây không biết bao đau thương tang tóc.

           Quân phiệt thì dùng bạo lực quân sự.

           Học Phiệt thì dùng sở họckiến thức để cưỡng từ đoạt lý.

          Thế phiệt thì dùng cường quyền do ưu thế dòng dõi quan gia vọng tộc.

          Tài phiệt thì dùng tiền bạc của cải để “đa kim ngân, phá luật lệ ”.

          Giáo phiệt thì dùng giáo quyền tôn giáo để thực hiện những tham vọng riêng tư cho cá nhân giáo sĩ hay cho sự phát triển phe nhóm trong tôn giáo mà họ có thực quyền nhờ một thời tạo thanh thế, ẩn núp và chờ đợi thời cơ. Thời cơ đối với họ là sự chiếm giữ và độc quyền. Họ sẽ hạ bất kỳ ai đó mà họ cho là đối thủ, có thể cản trở vị trí quyền lực của họ bằng những hành động vô luân và độc ác.

         Những kẻ kiêu ngạo, nhờ tấm bảng “Phiệt – Duyệt” tự cho mình là chân lý, là tối thượng, và mọi thành phần, mọi tổ chức khác phải khâm phục, tuân thủ. Máu lệ oan khiên của bất cứ ai, dù  một thời là cấp trên, là bằng hữu, là huynh đệ của họ, không làm họ chùng bước.

         Khi xây dựng ý đồ bước vào "Lương Hảo Phiệt", họ hóa trang khuôn mặt hiền hòa, đạo đức, và chờ đợi quần chúng khâm phục kính trọng họ.Khi nhận được vị trí trong lòng quần chúng đã khá vững vàng chính là lúc họ ra tay. Khi họ ra tay là khuôn mặt rắn lại, vô cùng nham hiểm, ác tính trải đầy trên mặt họ.

        Trước khi ra tay triệt hạ những ai có thể cản đường, họ tạo ra kịch bản. Kích bản đầu tiên là tạo ra tình huống họ bị mạ lỵ với lời lẻ bất xứng, xúc phạm của ai đó.

         Cú ra tay đầu tiên không phải là trọng điểm của ý đồ.

         Vì tạo được lý cớ, hình ảnh, để quần chúng cảm thông. Khi thời cơ thuận lợi đến, họ nhẫn tâm, bất chấp hậu quả sẽ gây cho tổ chức, cho cá nhân ai đó có bị thiệt hại, dù đối phương của họ chưa đáng bị hậu quả trừng phạt như thế, dù đáng ra sự thể chỉ nên trong nội bộ. Do nhờ  biết tạo nên kịch bản nên họ được sự thông cảm của quần chúng dễ tính, dễ bị mũi lòng mẫn cảm. Họ dùng dư luận xã hội để giết chết danh dự đối thủ.

       Nhưng cái đích chính của mũi tên là sự đe dọa cho những ai không biết tự xếp mình làm kẻ bầy tôi của họ. Mũi tên thứ hai mới là mũi tên chủ định. Mũi tên nầy giết chết danh dự  những cá nhân họ cần loại trừ, và dĩ nhiên tổ chức mà họ chiêng trống ồn ào phục vụ sẽ bị xóa sạch nếu họ không thao túng được.  

       Họ say máu rửa hận và say men chiến thắng!

       Kết quả của quá trình nầy, người ta gọi là "Nội phản".

      Do hoàn cảnh xã hội và nhu cầu chống cộng, chống tà gian, chúng ta lại phải đối đầu một loại duyệt phiệt mới tạm gọi là: Lương Hảo Phiệt, Chống Cộng Phiệt, nghĩa là một cá nhân nào đó nhờ vào một số thành tích chống cộng có toan tính, làm bình phong  nên quần chúng lầm tưởng là chân chính, gọi là lương hảo. Rồi họ dùng cái được coi là lương hảo nầy làm vốn liếng gây tạo thanh danh khởi đầu cho kế hoạch tạo thế lực tiến đến thao túng đại cuộc. Họ rình rập cơ hội để xé to, thổi phồng thêm những lầm lỗi của bất cứ ai, dù chỉ ở mức vi cảnh, hay nặng lắm là tiểu hình trở thành tội đại hình, đáng "tru-di tam tộc”. Dù vết thương chỉ đáng băng bó, thì họ lại giải phẫu, cố tình làm cho lỡ loét, ung thối để chặt bỏ và...đem chôn!       

        Những lương hảo phiệt hay chống cộng phiệt nầy biến lỗi lầm của chiến hữu, của đồng đạo thành cơ hội, thành điều kiện để thực hiện kế hoạch triệt tiêu đối thủ để độc quyền và họ tận tình khai thác như: Lên án, vu khống, nhục mạ, nhất quyết bao vây không cho đối phương chiến hữu, đối phương đồng đạo có điều kiện giải trình. Họ quyết khai tử bất cứ cá nhân hay thế lực nào xét thấy nguy hiểm cho vị thế độc quyền, độc tôn, thao túng của họ. Họ làm vẩn đục, gây nhiễu nhương phân tranh, đào sâu sự nghi ngờ, tác hại tiềm lực chống cộng, mà hậu quả là lực lượng chống cộng bị rã rời, chia rẽ mà cuối đường là nguy cơ niềm tin bị tàn phá. Và thế là, do kiêu căng, do ý niệm công thần, từ vị trí lương hảo họ trở thành tai họa cho dòng tiến của lịch sử.

       Sự hiện diện của giới thầm lặng chính là tiếng nói rõ ràng, dứt khoát, là thái độ minh thị sự quyết tâm dấn thân cho đại cuộc.

       Hãy nhớ rằng giới thầm lặng rất tỉnh táo, phân biệt rất rõ ràng giữa tình cảm cá nhân và trách nhiệm người lưu vong tỵ nạn cộng sản.

       Những nhà chính trị mộng du, những nhà lương hảo phiệt, chống cộng phiệt đừng nghĩ rằng lực lượng âm thầm đó không có phương tiện phản kháng mà làm những điều vô minh, bất chính. Thái độ thao túng ấy sẽ bị lực lượng thầm lặng trả lời bằng phản hồi với một thông-điệp: "Chúng tôi không thể chung đường với quý vị vì quý vị cũng có những đặc tính giống cộng sản, quý vị vô tình làm lợi cho cộng sản, thực hiện chia rẽ khối đoàn kết Dân Tộc”.

       Lực lượng âm thầm không bao giờ gia nhập vào tập đoàn vô luân nầy .

       Thầm lặng không bao giờ là im lặng. Thầm lặng cũng biết nổi giận!

       Như trên đã nói, Khi thầm lặng nổi giận thì tác hại kinh khiếp vô cùng. Lịch sử chính trị thế giới đã từng chứng minh các cuộc Cách Mạng long trời lở đất, làm đảo lộn các hệ thức chính trị, đánh đổ những chế độ chính trị kềm hãm quyền sống con người, khai mở những kỷ nguyên chính trị Tự Do, Dân Chủ và Nhân Bản đều vì và do đa số thầm lặng tác động.

      Lực lượng thầm lặng đã từng chiến thắng Quân phiệt, Tài-phiệt, Thế-phiệt, Giáo quyền phiệt… và chắc chắn sẽ không cho phép bọn hoạt đầu chính trị, hoạt đầu tôn giáo khống chế, thao túng họ dưới phấn son áo mão của những kẻ chuyên nghề tráo bài ba lá đánh lừa nhân thế, để được thế nhân gọi là lương hảo.

      Nhưng khi con tắc kè biến màu sang “ phiệt”, thì lực lượng thầm lặng xem bọn Lương Hảo Phiệt, Chống Cộng Phiệt, Tôn Giáo  Phiệt  là bọn bất lương, cũng nham-hiểm ác độc như Cộng sản, nhưng lại có phần nguy hiểm hơn cộng sản, bởi vì chúng là những con rận trong chăn, khó phát hiện hơn và độc hại hơn. Và vì thế, dĩ nhiên, trong nhiều trường hợp lực lượng thầm lặng xem chúng là kẻ nội thù.

    Hãy tỉnh thức hỡi những chính trị gia mộng du,những kẻ núp bóng tôn giáo. 

   Hãy quăng bỏ chiếc áo Lương hảo phiệt,Chống Cộng Phiệt,Giáo Quyền Phiệt.

   Hãy trở về vị trí những nhà lương hảo, những con người chân chính để chúng tôi vẫn được là những chiến hữu, những đồng đạo như trước kia của quí vị với tất cả niềm tôn kính và thân thiết.

                                                 Tống Phước Hiến

Friday, November 22, 2013


HIỆN TƯỢNG “HOÀI NGÔ” TẠI HẢI NGOẠI
       VÀ PHONG TRÀO ĐẤU TRANH DÂN CHỦ TẠI VIỆT NAM

                                                        Định Nguyên

 Mở đầu bài viết, trước khi nói chuyện “hoài Ngô, bài Ngô” cùng Phong Trào Dân Chủ trong nước, xin phép được có một vài nhận xét chủ quan về thảm trạng VN dưới bàn tay của thực dân và cộng sản.

Từ khi nước VN chúng ta bị thực dân Pháp đô hộ, từ khi có sự xuất hiện của Chủ Nghĩa Cộng Sản, gia tài của Mẹ VN hoàn toàn bị phá sản, nước VN hoàn toàn mất chủ quyền, dân tộc VN hoàn toàn bị phân hoá. 

 Chế độ CSVN hiện nay,  họ có phải là chế độ thuần tuý của người VN không?  Họ có vì độc lập của Tổ Quốc, vì no cơm ấm áo cho người VN không?  Họ đã thống nhất đất nước nhưng có vì đoàn kết dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc không?  Hoàn toàn không phải!  Họ là con đẻ của Chủ Nghĩa Cộng Sản, một chủ nghĩa ngoại lai và tàn bạo nhất trong lịch sử nhân loại.   Họ là “Ốc mượn hồn”, là “Hồn Trương Ba, da Hàng Thịt” mang hình hài và vóc dáng VN nhưng linh hồn họ đã bán cho mấy ông Tây râu xồm bên trời Âu rồi.  Trung thành với lý tưởng “thế giới đại đồng”, họ đã rước Trung cộng tràn ngập quê hương, ngược đãi và bỏ tù những người VN yêu nước chống Tàu xâm lăng.  Nói ngắn gọn:  Chế độ CSVN không phải của người VN, không do người VN dựng lên mà là một chế độ do đế quốc cộng sản gầy dựng.

 CSVN ở miền Bắc (vả cả nước hiện nay) như thế, ở miền Nam trước năm 1975 như thế nào?

 Cuộc chiến vừa qua là một cuộc chiến ý thức hệ.  Miền Bắc cộng sản lệ thuộc Nga, Hoa…thì miền Nam lệ thuộc Mỹ, Pháp…Ông Ngô Đình Diệm, Tổng Thống đầu tiên của VNCH tại miền Nam, lúc đầu mang dáng dấp của một người quốc gia yêu nước nhưng rồi cũng chỉ là con bài của Mỹ, của Thiên Chúa giáo (qua Linh Mục Francis Spellman).  Các tướng lãnh lật đổ ông ta cũng nằm trong vòng ảnh hưởng nặng nề của Mỹ, thực hiện những ý đồ và quyền lợi cho Mỹ.  (Tội nghiệp TT. Nguyễn Văn Thiệu, biết đặt bút ký Hiệp Định Paris là chết mà cũng phải ký, không thể cưỡng lại ý đồ của “người bạn đồng minh” Hoa Kỳ).  Các chế độ VNCH, tuy hơn hẳn csBắc Việt về mọi mặt, nhất là tinh thần tự do dân chủ, bảo tồn văn hoá và truyền thống dân tộc nhưng cũng chỉ là những chế độ chịu ảnh hưởng nặng nề của ngoại bang, hoặc do bàn tay lông lá của ngoại bang dựng lên và lèo lái.  Dù “Chính nghĩa Quốc Gia” hay cái gọi là “Lý tưởng cộng sản” đã đưa đến “cuộc chiến Quốc-Cộng” tàn khốc trong hai mươi năm (1955-1975) làm cho đất nước bị tàn phá nặng nề, hằng triệu người dân VN thuộc cả hai bên chiến tuyến ngã xuống cũng chỉ vì bị dẫn dắt, bị mê hoặc bởi “tinh thần yêu nước, bảo vệ tổ quốc, bảo vệ tự do” do những  thế lực ngoại bang sắp đặt.

Với chính sách “chia để trị” của ngoại bang và cộng sản, với sự tiếp tay đắc lực của những kẻ cầm quyền từ hai bên, dân tộc VN đã bị phân hoá trầm trọng.  Nếu MỖI NGƯỜI VN trong tất cả mọi thành phần, mọi tôn giáo…không ý thức được điều nầy mà tự chế, không biết đặt quyền lợi của Tổ quốc lên trên quyền lợi của phe nhóm hoặc cá nhân thì đây là một đại hoạ cho đất nước.  VN có thể bị diệt vong.  Từ cộng sản đến quốc gia khó đội trời chung, đã đành.  Trong thành phần Người Việt Quốc Gia, mặc dù không còn đất đứng, sự chia rẽ cũng có vẻ như khó hàn gắn.  Cứ tưởng kinh nghiệm xương máu sẽ giúp thành phần nầy chung lưng sát cánh để đối chọi với VC, (một thế lực ngoại bang còn ngự trị trên đất nước chúng ta), đem lại độc lập thật sự cho dân tộc.  Nhưng không, chỉ vì một vị tổng thống đã quá cố, một chế độ đã đi vào lịch sử mà họ coi nhau như kẻ thù.  Hiện tượng “hoài Ngô” và “bài Ngô” hiện nay đã phân hoá lòng người một cách thảm hại.

                                                      A.   Hoài Ngô/bài Ngô,
 
Sau khi chế độ của ông TT. Ngô Đình Diệm (NĐD) tại miền Nam bị lật đổ, anh em họ nhà Ngô bị giết chết, trong suốt 12 năm sau đó (1963-1975) dưới thời VNCH Đệ II không những chính quyền mà cả các đoàn thể quần chúng KHÔNG CÓ AI tổ chức lễ tưởng niệm ông NĐD một cách công khai.  Đây là một sự thật lịch sử khó phủ nhận.

Sau khi mất nước, người trước kẻ sau, trên dưới hai triệu người VN phải rời bỏ đất nước ra nước ngoài tỵ nạn.  Trong suốt hơn ba thập niên làm kiếp lưu dân (1975-2008), KHÔNG CÓ MỘT CÁ NHÂN, TỔ CHỨC NÀO tổ chức lễ giỗ ông NĐD một cách công khai.  Đó cũng là một sự thật khó chối cãi.

 Phong trào “hoài Ngô” chỉ bắt đầu vào khoảng năm 2007-2008 khi ông Liên Thành (LT) khởi động “mặt trận Biến Động Miền Trung” bằng một cuốn sách cùng tên.  Sau khi cuốn sách nầy trình làng, những kẻ “hoài Ngô” bắt đầu trổi giậy, lúc đầu còn dè dặt nhưng hiện nay thì đã nổi lên khắp nơi, càng lúc càng hung hăng.  LT bắn phát súng lệnh “hoài Ngô” chắc chắn phải có mục tiêu đặc biệt nào đó, nằm trong kế sách của một thế lực chính trị nào đó.  Có “hoài Ngô” chắc chắn phải có “bài Ngô”.  Vì lý do gì mà người VN hải ngoại lại đem tên tuổi của cố TT.NĐD lên để, một bên “vinh danh/tưởng niệm”, bên kia chưởi rủa như thế?  Tại sao chỉ vì một chế độ, một lãnh tụ đã đi vào lịch sử mà người cùng nhà lại công kích nhau kịch liệt như thế.  Sự công kích nầy không những chỉ giới hạn giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân và tác giả mà đã bước qua lãnh vực tôn giáo:  Phật giáo và Thiên Chúa giáo!  Họ không ngần ngại đem Chúa, đem Phật cùng những chức sắc và giáo phẩm hai tôn giáo nầy ra làm đề tài khích bác nhau.  Chưa bao giờ tình trạng hiềm khích tôn giáo lại nguy hiểm như lúc nầy.  Đây là chuyện ngẩu nhiên hay do thế lực nào đó tạo nên?  LT đem toàn những sự kiện quá khứ (cách nay nửa thế kỷ), đem những lãnh đạo Phật giáo tranh đấu thời ông NĐD (phần đông đã chết) ra tố cáo và phỉ báng làm giới Phật tử và người bàng quan bất mãn.  Sự phản pháo từ những giới nầy là điều đương nhiên.  Chỉ trích ông NĐD không thể không nói đến Cần Lao Thiên Chúa giáo.  Một số tín đồ Thiên Chúa giáo rất dễ hiểu lầm một số người phê bình chế độ NĐD kỳ thị Thiên Chúa giáo.  Đây là cái bẩy sập của nhóm LT mà hầu như mọi người, dù biết nhưng khó tránh được.  Đây là một đại vấn nạn cho người Việt Quốc Gia, nói riêng; cho toàn bộ dân tộc VN, nói chung. 

 Tôi không trách những kẻ “bài Ngô”, họ chỉ tự vệ.  Từ sau ngày 01 tháng 11 năm 1963, khi chế độ của TT/NĐD bị lật đổ đến nay dân miền Nam VN không bao giờ có tư tưởng hay hành động “bài Ngô” nào cả (ai lại đi “bài” cái không còn tồn tại) cho đến khi LT và nhóm Cần Lao cũ đột nhiên cổ xuý việc “hoài Ngô”.  Như thế “trận chiến hoài Ngô và bài Ngô” do chính những kẻ “hoài Ngô” khai hoả trước. Tôi hiểu được tâm trạng của những người “bài Ngô”.  Ngay trong ngày 01 tháng 11 năm 1963, khi gia đình nhà Ngô bị lật đổ, trong khi những người ủng hộ ông NĐD im thin thít thì hằng triệu người VN trên khắp miền Nam, nhất là tại các thành phố ùa ra đường tung cờ reo hò chiến thắng, hoan hô quân đội đã vì dân diệt bạo…Thế mà hiện nay, những kẻ im thin thít năm xưa ấy, dám ngang ngược xúc phạm tình cảm thiêng liêng của đa số người VN tại miền Nam; đám “hoài Ngô” cuối mùa ấy lại dám ngang ngược coi các tướng lãnh chủ trương lật đổ Ngô triều là những loạn tướng, những kẻ phản quốc…! (Nếu các tướng lãnh ấy là “loạn tướng”, là “phản quốc” thì tất cả quân, cán, chính các cấp chiến đấu và phục vụ VNCH trong suốt 12 năm thời hậu Ngô, do các tướng ấy lãnh đạo, phải là những kẻ “loạn thần” và “phản quốc” cả hay sao?  Tôi tin rằng hầu hết những quân, cán chính miền Nam trước năm 1975 hiện có mặt tại hải ngoại không ít thì nhiều đều phục vụ VNCH sau khi NĐD bị lật đổ.  Ai trong số những người nầy dám tự nhận mình là “loạn thần”, là “phản quốc” không)?  Rõ ràng, giọng lưỡi cực đoan thiếu trí tuệ của một số người “hoài Ngô” không có một giá trị lịch sử và thực tế nào cả, nó chỉ chứng tỏ sự cuồng tín mà thôi.  (Những phát biểu nầy không có tác dụng xây dựng tích cực nào chỉ làm hận thù dân tộc sẽ sâu sắc thêm mà thôi.  Ai muốn vinh danh/tưởng niệm lãnh tụ nào thì cứ việc.  Tại sao lại phải lăng nhục chính kiến và tình cảm của người khác, nhất là các lãnh đạo VNCH sau ông NĐD?)

 Gần đây, lễ giỗ ông NĐD được tổ chức nhiều nơi tại hải ngoại làm “nức lòng” đám cuồng tín nầy và những người vô tư “ham vui” nhưng lại làm cho các thành phần dân tộc khác băn khoăn và lo nghĩ.  Những cái “đám giỗ” mới mẻ cho một người chết đã lâu nầy không đơn thuần là việc làm thuộc lãnh vực đạo lý mà là một hiện tượng chính trị.  Người ta thường nhìn lại lịch sử, tìm một anh quân hoặc anh hùng làm biểu tượng chung để chống giặc, không ai làm chuyện đó để anh em đánh nhau cả.   Bên cạnh sự đánh phá Phật giáo hiện nay, sự “hoài Ngô” một cách đột xuất và cuồng nhiệt đó không phải để chống cộng, hình như họ có một mục đích chính trị nào khác, sẽ ảnh hưởng đến vận mệnh của đất nước và dân tộc VN trong một ngày gần đây.

                                       B. Phong Trào Dân Chủ trong nước

 Với sự kềm hẹp tinh vi và sắt máu của CSVN, đã mấy chục năm, mặc dù rất căm hận, dân tộc VN đành cam chịu mà không dám rục rịch chống đối.  Nhưng gần đây, Phong Trào Đấu Tranh Dân Chủ đã manh nha thành hình, gây sự chú ý của quốc tế, làm náo nức và hy vọng cho toàn dân VN.                                                                                   

 Tại VN hiện nay không có xã hội dân sự, mọi hình thức tụ họp đông người đều bị cấm, người dân khó mà có những hoạt động công khai khởi đầu cho việc loại bỏ chế độ độc tài cộng sản.  Chỉ hy vọng vào tôn giáo.  Nhưng với VC, mọi tôn giáo đều là đối tượng đáng bị tiêu diệt.  Không tiêu diệt được thì họ tìm cách phân hoá để ngăn ngừa một sự tập hợp đồng loạt của quần chúng, đe doạ đến sự tồn tại của họ.  Phật giáo, Cao Đài, Hoà Hảo…đều bị kích động chia thành hai, ba phe khác nhau, trong đó có phe theo chính quyền.   Thiên Chúa giáo thì hơi khác.  Đây là một tôn giáo có tổ chức “bậc thầy” của cộng sản, nghĩa là họ có tổ chức rất chặt chẻ, có hệ thống lãnh đạo rành mạch từ trên xuống dưới, đặc biệt là giáo dân rất ngoan đạo, rất đoàn kết, sẵn sàng vâng lệnh các lãnh đạo tinh thần của họ.  Một điểm rất đáng được chú ý là khó xác định được mục đích của Thiên Chúa giáo VN.  Một mặt, họ tự nguyện đặt mình dưới sự kiểm soát của CSVN, mặt khác họ cũng chống đối CSVN, dù chỉ chống đối cầm chừng.  CSVN đã nhiều lần trấn áp họ như vụ chiếm Toà Khâm Sứ ở Hà Nội, vụ Tam Toà ở Quảng Bình, vụ Loan Lý ở Thừa Thiên-Huế, vụ Thánh Giá ở Đồng Chiêm, hiện nay nóng nhất là vụ Mỹ Yên…nhưng họ chỉ phản ứng vừa phải bằng hình thức “Thắp nến cầu nguyện” mà không có kế hoạch tranh đấu xa hơn, mạnh hơn.  Với một tổ chức có kỷ luật, có tinh thần tập thể rất cao như thế, nếu họ đồng loạt hành động thì CSVN sẽ lâm nguy. Tại sao họ không hành động? 

                   Họ phải đợi lệnh từ cấp cao nhất:  Toà Thánh La Mã!

 CSVN và Toà Thánh La Mã đang muốn thiết lập quan hệ ngoại giao với nhau.  CSVN không dám mạnh tay với Thiên Chúa giáo VN vì gờm Toà Thánh.  Thiên Chúa giáo VN không thể một mất một còn với CSVN vì sợ đi ngược lại chủ trương của Toà Thánh.  Như thế, so với các tôn giáo có tính cách địa phương, rời rạc và “dễ trị” như Phật giáo, Cao Đài, Hoà Hảo…, Thiên Chúa giáo VN là một tôn giáo có thế lực và sức mạnh nhất của người VN hiện nay có thể đối đầu với CSVN.  Thế lực của họ ngoài sức mạnh tự thân còn có sự chống đỡ và chỉ đạo quốc tế.

Nếu VN có một sự thay đổi nào trong tương lai, Thiên Chúa giáo VN sẽ là một thế lực quan trọng nhất tạo nên sự thay đổi đó.

                                       Có hai điều RẤT ĐÁNG CHÚ Ý:

 1. Trong thành phần đấu tranh dân chủ trong nước, người Thiên Chúa giáo có mặt  đông đão nhất.  Ngoài các vị Linh Mục như Nguyễn Kim Điền (đã chết) Nguyễn Văn Lý (đang bị tù), Phan Văn Lợi…các khuôn mặt trẻ như TS. Cù Huy Hà Vũ, LS. Lê Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, Lê Công Định, Nguyễn Văn Đài, doanh nhân Trần Huỳnh Duy Thức, nhà Văn Huỳnh Ngọc Tuấn, Huỳnh Thục Vy, NS. Việt Khang, sinh viên Nguyễn Phương Uyên…đều là con cái của Chúa.  Thiên Chúa giáo chống cộng sản hết mình, quá đúng.

 2. Trong dịp giỗ cố TT/VNCH Ngô Đình Diệm vừa qua tại VN, lần đầu tiên một số Linh Mục và giáo dân (trong đó có Phương Uyên) đã đến viếng mộ phần ông NĐD tại Lái Thiêu một cách công khai mà không thấy phản ứng nào từ phía chính quyền!  CSVN đã tôn trọng nhân quyền và tự do tín ngưỡng rồi sao?  Cũng như phong trào “hoài Ngô” ở hải ngoại, chuyện viếng mộ phần của cố TT.NĐD lần đầu tiên nầy xem ra không đơn thuần là một sinh hoạt tôn giáo mà có màu sắc chính trị: chính trị “hoài Ngô”, một chế độ có Luật 10/59 chủ trương tiêu diệt cộng sản đến tận gốc rễ!  Tại sao CSVN để yên?  VN có tự do đối lập chính trị rồi sao?  Sự “hoài Ngô” trong nước nầy có liên hệ gì với phong trào “hoài Ngô” hiện nay tại hải ngoại không?  Tại sao cả trong và ngoài nước cùng dựng danh tánh cố TT.VNCH/NĐD dậy (một tín đồ Thiên Chúa giáo ngoan đạo, đã chết cách đây nửa thế kỷ) để hoan nghênh, để đánh bóng?  Đây là một sự trùng hợp ngẩu nhiên hay đã có sự sắp đặt, chỉ đạo của một thế lực nào đó?

 Và, liệu đây có phải là những dấu hiệu báo trước VN sẽ có thay đổi không?

Giải thể được CSVN là điều đại phước cho dân tộc VN.  Nhưng hậu cộng sản, chúng ta có thể có được một chính phủ của chính người VN với nền độc lập và tự chủ thật sự không?  Hay cũng chỉ là một phiên bản kế thừa khác của các thế lực quốc tế?

                                                Sacramento, thượng tuần tháng 11 năm 2013

Thursday, August 1, 2013

LIÊN THÀNH CHÊ NGÔ ĐÌNH DIỆM BẤT LỰC CHỐNG CỘNG
PHẢI CHỜ ANH-HÙNG TUỔI TRẺ TÀI CAO RA TAY!

Nguyễn Việt Nữ

Người hùng  tuổi trẻ tài cao đó là ai? Là “Viên Sĩ Quan trẻ tuổi này bẻ gãy kế hoạch của Hà Nội và Hoàng Kim Loan (….) Viên Sĩ Quan đó là tôi, Đại Úy Liên Thành, Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Thừa Thiên và Thị Xã Huế.
Công bằng mà nói, Hoàng Kim Loan là một trong những điệp viên suất sắc của Cộng Sản, hoạt động trong lòng địch gần 20 năm. Trong 15 năm đầu, không một cơ quan tình báo nào của Chính phủ VNCH phát giác được hắn. Khi bị tôi còng tay vào tháng 5/1972, hắn 56 tuổi…” (Hết trích -Trích nguyên văn  “Phần 5” Huế, Mùa Hè Đỏ Lửa “Biến Động Miền Trung” của tác giả Liên Thành)
Xin cứ làm bài toán trừ  là ra: Năm 1972 trừ lại 15 năm trước (1972--15=1957) tức là năm 1957, thời gian đó chính phủ Ngô Đình Diệm trọn quyền sanh sát Cộng sản trong tay.
Có phải đúng là Liên thành tố cáo chính phủ Đệ Nhất Cộng Hòa không làm trò bổn phận chống Cộng cho đất nước không? Nói có sách mách có chứng đấy nhé?
Bởi vậy, chúng tôi đã chính thức lên tiếng cảnh cáo ông Biến Động Miền Trung coi chừng “làm ơn mắc oán”. Vì khi nhân danh cháu của Đại-Lão Hòa-Thượng Thích Tịnh Khiết, Đệ Nhất Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo,    đấu-tố Đệ Tam Tăng Thống Thích Đôn Hâu, dẫn tới Đệ Ngũ Tăng Thống GHPHVNTN Thích Quảng Độ, có Chùa Điều Ngự là văn phòng II Viện Hóa-Đạo tại Hoa Kỳ là “Ổ Cộng Sản” thì ai mà không tin? Nhất là buổi sinh hoạt nào của Ủy Ban Truy Tố  Tội Ác Đảng Cộng Sản Việt Nam (UBTTTAĐCSVN) mà Liên Thành là Chủ tịch đều có bàn thờ Chí sĩ Ngô Đình Diệm và có khi còn trổi bài “Suy Tôn Ngô Tổng Thống”, nên người ta gọi là “Nhóm Tồn Ngô”.
Nhưng đọc kỷ BĐMT lại thấy như trên, chính tác giả tự nhận huyết thống Phật tử “thuần thành” nầy lại công khai thóa mạ chính hệ thống tình báo của cả Đê I và Đệ II VNCH –lãnh đạo bởi 2 người con chiên của Chúa  đều vô-tích -sự, phải chờ tới “anh hùng” ra tay! Có phải Liên Thành muốn “làm ơn nhưng mắc oán” không?
Cho nên ai cũng nói, giờ nầy người thức thời đều biết Liên Thành là con Zéro to tướng, ai thèm để ý làm gì nữa? Nhưng còn thiếu gì người “không thức thời” tin theo Liên Thành, mà những người nầy đâu phải dốt nát, mà nào là Tướng Lý Tòng Bá, nhất là Bác sĩ Nguyễn Hi Vọng, người chống Cộng nhiệt thành  và ..v.v. nữa?

I.Xóa bỏ hận thù tôn giáo vì chiến tranh Việt Nam (1954--1975)
Đệ Nhất Cộng Hòa có hệ thống tình báo mật vụ-đảng Cần-Lao của chế độ Tổng Thống Ngô Đình Diệm mà Bác Sĩ Trần Kim Tuyến (1925 –1995) là Giám đốc Sở Nghiên cứu Chính trị và xã hội Phủ tổng thống, thực chất là người chỉ huy hệ thống an ninh mật vụ của nền Đệ nhất cộng hòa Việt Nam trong suốt giai đoạn 1956–1963.

I.A. Sơ lược Lý lịch của ông Trần Kim Tuyến
Năm 1954, khi Ngô Đình Diệm về nước, nắm quyền Thủ tướng Quốc gia Việt Nam, Ngô Đình Nhu đã lập ra đảng Cần lao – Nhân vị để làm lực lượng chính trị hậu thuẫn. Trần Kim Tuyến đã gia nhập đảng Cần lao và trở thành người thân tín của Ngô Đình Nhu. Sau khi nền Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam được thành lập năm 1955, ông được giao chức vụ Giám đốc Sở Nghiên cứu Chính trị Xã hội trực thuộc Phủ Tổng thống, thường được gọi ngắn là Sở Nghiên cứu Chính trị và có tên gọi tắt là Phòng 4. Thực chất, đây là một trung tâm tình báo chiến lược, đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của Cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu, với nhiệm vụ trấn áp các phe phái đối lập để bảo vệ chế độ, chỉ huy toàn bộ các nhóm tình báo, mật vụ, cảnh sát đặt biệt và phần nào kiểm soát các đơn vị đặc nhiệm chống đảo chính. Trần Kim Tuyến trở thành một trong những nhân vật có quyền lực cao nhất của nền Đệ nhất cộng hòa.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, trên đường chạy đến Tòa Đại Sứ Pháp tỵ nạn, Trần Kim Tuyến được một phóng viên báo ngoại quốc giúp đỡ. Trớ trêu thay, người đó chính là tình báo viên chiến lược của đối phương Phạm Xuân Ẩn. Trước đó, đầu năm 1963, Trần Kim Tuyến cũng đã có liên hệ với một sĩ quan quân đội để làm đảo chính. Người đó cũng lại là một tình báo viên chiến lược của đối phương: Trung tá Phạm Ngọc Thảo. Hai lần biến cố của Trần Kim Tuyến đều có liên quan đến người của "phía bên kia".
Sau khi đào thoát khỏi Việt Nam, Trần Kim Tuyến và gia đình sang tỵ nạn tại Anh Quốc và sống thầm lặng tại đó. Trần Kim Tuyến mất ngày 23 tháng 7 năm 1995 tại Cambridge, Anh Quốc. THỌ 70 TUỔI (Trích từ Nguồn: Tự Điển Bách Khoa Toàn Thư Mở)
Trần Kim Tuyến tức là nhà văn Lương Khải Minh cùng Tiến Sĩ Cao Thế Dung đồng tác giả quyển “Làm Thế Nào Để Giết Được Một Tổng Thống” (LTNĐGĐMTT).  Dưới đây tác giả Làm Thế Nào Để Giết Một Tổng Thống  nhận định về nhóm muốn hồi phục lại danh dự cho cụ Ngô lâu rồi, từ khi còn trong nước nhưng bất thành.  Ra hải ngoại, “Nhóm Tồn Ngô”  Liên Thành đang làm lại.
Lương Khải Minh Trần Kim Tuyến viết:
“ Trước và sau ngày 1-11-1969 (ngày Quốc Khánh của Đệ II Cộng Hòa) trong quốc dân đã trỗi dậy một vài khuynh hướng và phong trào đòi phục hồi danh dự cho cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và làm sống lại cái chết bi thảm của ông và các bào đệ ông. Đồng thời lại có một vài khuynh hướng khác không đồng ý như vậy vì nếu phục hồi danh dự cho cố T.T Diệm tức là đã công khai phủ nhận ý nghĩa của ngày 1-11-1963 mà khuynh hướng trên vẫn còn coi đó là một ngày cách mạng với niềm tự hào phát xuất từ danh nghĩa cao đẹp này.
…. Dù cách nào cái chết của ông đã được nhiều người Việt Nam thắp nén hương lòng để tưởng niệm. Giả dụ TT Diệm chết vì mưu toan của ngoại bang thì cái chết của vị tử vì đạo vì quyền tự quyết dân tộc.
Nhưng khuynh hướng và phong trào trên đây chung quanh vấn đề phục hồi danh dự cho cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm dù cách nào cũng chỉ là phản ứng nhất thời của từng tập thể. Do đó sẽ thiếu trung thực và vô tư cần có.
Nhận định về cái chết của TT Diệm cũng như vấn đề công hay tội của chế độ Ngô Đình Diệm trước hết phải tách rời tinh thần chủ quan phe phái và phải vượt trên và ở ngoài phương vị tôn giáo cũng như các chính kiến dị biệt.
Trước mắt và trong tâm hồn người viết sẽ chỉ thấy một con người Việt Nam.
Ngô Đình Diệm trên đoạn đường lịch sử 9 năm (1954-1963) Con người ấy như thế nào? Đã làm được gì cho Việt Nam?.(..).
Cái chết của TT Diệm mang theo sự sụp đổ của chế độ Đệ I Cộng Hòa đồng thời tố cáo luôn bộ mặt thực của một số thư lại gia nhân. Chính họ đã góp công lật đổ, trước hết vẫn là một thảm kịch đó đã kéo dài trên một thế kỷ. Những viên đạn nổ vào đầu Ông Diệm chỉ là kết quả của bao nhiêu mâu thuẫn nội bộ của những ưu điểm và nhầm lẫn…” (Hết trích)                                                  

Chúng tôi xin chứng minh “mâu thuẫn nội bộ” là kết quả của những viên đạn nổ vào đầu Ông Diệm:

 Cụ Minh Võ Vũ Đức Minh, một trí thức Thiên Chúa giáo, người “đã gắn bó gần trọn nửa đời trong ngành truyền thanh” (Lời của Giáo sư Trần Phong Vũ giới thiệu quyển “Ngô Đình Diệm và Chính Nghĩa Dân Tộc” (NĐDvCNDT) tái bản năm 2009.  Tác giả Minh Võ viết rằng Cụ Diệm –Nhu biết Phạm Ngọc Thảo rõ, nhưng: “anh em ông Diệm biết Trung Tá Phạm Ngọc Thảo là điệp viên Cộng Sản nhưng vẫn dùng để phòng hờ có lúc dùng liên lạc  với đối phương.  Người ta còn nhớ trong cuộc đảo chính 1-11-63, chính Phạm Ngọc Thảo đã đến dinh Gia Long định đón ông Diệm. Nhưng khi đến nơi thì ông đã vào Chợ Lớn. Nhiều người còn nói  Phạm Ngọc Thảo là gián điệp hai, ba mang nữa…” (NĐDvCNDT, Minh Võ, tr. 149, 150). (Hết trích)
Như vậy kiến thức của nhà biên khảo Minh Võ xác nhận đúng là do chính những  nhầm lẫn, mâu thuẫn nội bộ  của dòng họ Ngô Đình là những viên đạn nổ vào đầu Ông Diệm. Đúng như Lương Khải MinhTrần Kim Tuyến, một nhân vật có quyền lực cao nhất trong ngành tính báo mật vụ của nền Đệ Nhất Cộng Hòa, sát cạnh Cố vấn Ngô Đình Nhu đã viết trên đây, chứ không phải tại Phật giáo là Cộng Sản làm sụp đổ Ngô triều như “Nhóm Tồn Ngô” Liên Thành tố cáo đầy hận thù tôn giáo!
Đây, quyển Biến Động Miền Trung (BĐMT) chỉ phần I trong  XVII phần, tác giả “Phật giáo thuần thành” Liên Thành đã kể: Tình Báo Chiến Lược Cộng Sản của Hồ Chí Minh từ Bắc vào Nam đã bám rễ, gài vào đợt người di cư từ 1954 quá nhiều, trong đó có Vũ Ngọc Nhạ và Phạm Ngọc Thảo mà không ai biết, cho tới tháng 5/1972, Đại Úy Liên Thành, Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Thừa Thiên và Thị Xã Huế trói được Hoàng Kim Loan thuộc  Cục Tình Báo Chiến Lược, và Tổng Cục 2 Quân Báo Cộng Sản mới vỡ lẽ!
Cái lẽ của anh-hùng tuổi trẻ tài cao là nhờ Hoàng Kim Loan”Bật mí” cho biết những “Bí mật”  là tại vùng Thừa Thiên--Thị xã Huế có 3 đảng viên Cộng Sản do chính Hoàng Kim Loan điều động là Thích Đôn Hậu, Thích Trí Quang, và Thích Chánh Trực, đệ tử ruột, truyền nhân của Thích Trí Quang.
Nhưng Trần Kim Tuyến không hề kết luận như vậy. Ông chỉ cho là nội bộ Nhà Ngô với những lầm lẫn, những công tội.. Vậy ta tin ai?
Ngay nhập đề BĐMT, tác giả giới thiệu là “(Giai đoạn 1963-1975) - Phần 1
“Lịch Sử Việt”
Vậy trên đây ta đã biết lý lịch của Trần Kim Tuyến, tại sao ta không tìm biết lý lịch của  “Sử gia” Liên Thành ra sao??

                                                        XXXXXXXX
I.B. Liên Thành là ai?

Chỉ cần biết làm bài toán trừ lớp ba trường làng là tìm ra  “lý lịch” người hùng trong “Biến Động Miền Trung” ngay.

Thưa đây, nguyên văn ở  “Phần 5” HUẾ, MÙA HÈ ĐỎ LỬA
“Bây giờ là tháng 5-1972, mùa hè đỏ lửa, Cộng sản Hà Nội và Hoàng Kim Loan đang sửa soạn diễn lại màn bi kịch Mậu Thân 1968, tổng nổi dậy và tắm máu dân Huế một lần nữa. Nhưng Hoàng kim Loan không ngờ lần này, hắn gặp một đối thủ dù tuổi đời chỉ mới 26, thua hắn 30 năm, vào nghề sau hắn 18 năm, nhưng thừa khả năng, lòng can đảm, ý chí sắt đá của một Sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, và là nhân viên công lực của lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia Miền Nam Việt Nam. Viên Sĩ Quan trẻ tuổi này bẻ gãy kế hoạch của Hà Nội và Hoàng Kim Loan. Bắt giữ gần 1500 cơ sở nội tuyến mà hắn, Cục Tình Báo Chiến Lược, và Tổng Cục 2 Quân Báo Cộng Sản, của ban An Ninh Khu Ủy Trị Thiên, và của Tỉnh, Thị Ủy Thừa Thiên-Huế, đã bỏ ra gần 20 năm gây dựng tại Thừa Thiên-Huế. Và chính hắn, Trung Tá Việt Cộng Hoàng Kim Loan cũng phải đưa tay chịu trói. Viên Sĩ quan đó là tôi, Đại Úy Liên Thành, Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Thừa Thiên và Thị Xã Huế.
Công bằng mà nói, Hoàng Kim Loan là một trong những điệp viên suất sắc của Cộng Sản, hoạt động trong lòng địch gần 20 năm. Trong 15 năm đầu, không một cơ quan tình báo nào của Chính phủ VNCH phát giác được hắn. Khi bị tôi còng tay vào tháng 5/1972, hắn 56 tuổi…” (Hết trích)

Người hùng chẳng ai khảo mà khai gian, thành GIAN HÙNG Liên Thành!
Từ năm 2008 đến nay, nhiều tác giả “điểm sách” cho Liên Thành là kẻ mất trí. Trong ấy có người tên Trần Việt, viết chủ đề: “Liên Thành, người không biết chính mình là ai?”
Vì theo BĐMT thì “Liên Thành được hạ sinh đến ba lần không rõ một bà hay hai hay ba người đàn bà đã đẻ ra Liên Thành, hay có ba kẻ cùng có tên Liên Thành, cùng làm chỉ huy trưởng CSQG Thừa Thiên Huế trong cùng một thời gian có tới hai bà nội, hai bà mẹ đẻ ra một ông Liên Thành?” (“Liên Thành, một kẻ đáng khinh!” (xin đọc “Chúng tôi lên tiếng” blog http:// chungtoilentieng. blogspot.com/ của Trần Việt) 
Riêng chúng tôi không biết gì để  khinh hay trọng Liên Thành, chỉ thấy sách BĐMT ra không hợp thời vì giai đoạn nầy mà đi đào xới chuyện chia rẽ tôn giáo cho Cộng Sản hưởng lợi, nên chưa hề đọc sách của ông. Nhưng khi từ đầu tháng 10/12 đài SBTN thông cáo sẽ có buổi Hội luận của Chùa Điều Ngự ngày 13 tháng 10 năm 2012,  chúng tôi mới tìm đọc thôi và thấy ông chân thành viết rằng ông “đã tự biên và tự diễn một vỡ kịch rất ly kỳ, ông cố lặn sâu và trèo cao để phá vỡ mạng lưới tình báo chiến lược của Cộng sản để bảo vệ an ninh Quốc gia. “(Hết trích)
Chúng tôi thấy lại thất công lao của LT rất lớn, và ông  ta còn nêu lên đạo đức của nhân viên chính phủ VNCH khi thẩm vấn tên gián điệp Cộng sản Hoàng Kim Loan, nhưng tha cho vợ con hắn ta; ngược với Hồ Chí Minh: một người làm tội, ba đời nội ngoại của họ bị trù dập”. [Nhưng Lương Khải Minh có chỗ viết về tội của Cụ Diệm là “Thà giết lầm hơn bỏ sót”, ác không thua HCM—sẽ nói khi tới chương ấy]
          Nhưng với tác phẩm chưa đầy 230 trang,  phần vô đầu của “Đoạn Kết”, Liên Thành viết: “Tôi là kẻ đang kể câu chuyện “Ngàn lẻ một đêm” của xứ Huế. Vì có cả ngàn chuyện, nên cứ lan man từ chuyện này sang chuyện khác..”. Và nhờ có tài liệu do chính LT trình bày, chúng tôi thấy quả thật ông  không biết mình là ai như ông Trần Việt điểm sách lâu nay trên mạng net.
Trần Việt còn kết tội LT là kẻ phản loạn, đã bị gia tộc loại trừ.
Tác giả Trần Việt viết: “Trang 205, Liên Thành viết: Đến tháng 5 năm 1972 Hoàng kim Loan vừa đúng 56 tuổi"(1972--56=1916).Trang 208, Liên Thành cho biết thua Hoàng Kìm Loan 30 tuổi. Vậy Liên Thành sinh năm 1946. (1916--30=1946).
Trang 107, Liên Thành học lớp đệ nhị B2 tại trường Quốc học Huế, niên khoá 57-58". Ít nhất 17 tuổi mới được học đệ nhị (1957-17=1940) vậy Liên Thành sanh năm1940…”  Nơi khác Liên Thành viết cùng lứa tuổi với Nguyễn Đắc xuân, tên khét tiếng trong Tết Mậu Thân, hắn khai sanh năm 1943.” (Hết trích)
Còn đây là chính Liên Thành trình làng thẻ Sinh Viên Trường Đại học Văn Khoa Huế  với “Nhóm tồn Ngô” và trên mạng Net sáng ngày 13 tháng 10 năm 2012, trong khi buổi trưa cùng ngày có  Hội luận của Chùa Điều Ngự của GHPHVNTN.Slide show clip chiếu chứng minh không phải chỉ có BA như Trần Việt điểm sách mà tới BỐN tác giả Liên Thành!
          LIÊN-THÀNH Sinh ngày 01 tháng 12 năm 1942 Thế giới thấy tự Liên Thành viết gian, khai gian chưa?
Cho nên khối người tại miền Trung lâu nay quả quyết không phải Liên Thành viết BĐMT, vì chính ông ta còn không biết mình là ai kia mà? Cho tên tả đường hướng của thị xã Huế trong trận Mậu Thân, các chức vụ của các sư Phật giáo sai bét!
Chuyện ai đứng sau lưng Liên Thành, ngoài Dương Đại Hải và  nhóm dư  Đảng Cần Lao Nhân Vị mà Cố Vấn Ngô Đình Nhu là Tổng-Bí-thư [Giống đảng Cộng Sản quá?] đứng phía sau, rồi sớm hay muộn cũng sẽ lòi ra sự thật.
Riêng chúng tôi thấy “Sử gia” Liên Thành thứ 4 quan trọng cho lịch sử hơn 3 ông “Giả sư” tuổi tác trên.  Đó là với mục đích tự nâng mình lên tận thiên đàng, ông khai mang Liên Thành còn thiếu khôn ngoan: tố cáo chẳng những chế độ Ngô Đình Diệm mà cả thời Đệ Nhị VNCH làm mất đất nước về tay Cộng sản nữa!
Khiến cho hai bên tôn giáo đánh nhau, Cộng Sản hưởng lợi.
Vậy là quyển “Biến Động Miền Trung” của gian-hùng Liên Thành chỉ là một  bãi rác bầy nhầy cần hủy bỏ, chẳng những bên Phật giáo mà bên Thiên Chúa giáo nữa, để xóa bỏ hận thù tôn giáo. [Sẽ trích tiếp chương 5 LTNĐGĐMTT]


                                               VVVVVVV

II. Xóa bỏ hận thù Mỹ phản bội đồng minh VNCH

Xin đọc tác phẩm của ông Lê Xuân Nhuận, nguyên Giám Đốc Cảnh Sát Đặc Cảnh của VNCH, người có năm sinh 1930 tại Huế, cũng phục vụ ngành tình báo phản gián VNCH như ông Trần Kim Tuyến, nhưng chỉ thua TKTuyến (1925-1995) có 5 tuổi thọ. Tức  năm nay ông Lê Xuân Nhuận 83 tuổi và thời trẻ  ông cũng làm việc đầu tiên ở Ty Cảnh Sát  Huế, lớn lên phục vụ từ vùng II ra vùng  I của VNCH. 
Vậy nên đọc Biến Loạn Miền Trung ,  sách dày 250 trang, $10 ấn phí,  tác giả Lê Xuân Nhuận, nguyên  Giám Đốc Cảnh Sát Đặc Cảnh Vùng I&II VNCH viết trong chương “Lãnh-Chú Ngô Đình Cẩn” (từ tr. 215) đến trang (236)  có tiểu mục “Vụ Án Ưng-Bảo-Toàn”  tức “vụ gạo miền Trung”  mà ông BĐMT có nghe nhưng tác giả Liên Thành. dù là Trưởng Ty CSQG Huế, nhưng  sanh năm 1942 theo thẻ Sinh Viên, chưa chắc đã biết gì về chuyện xảy ra từ năm 1956, lúc ấy ông Biến  Động Miền Trung  mới 14 tuổi. 
Đọc Biến Loạn Miền Trung (BLMT) để thêm nhân chứng  sống về sự mâu thuẩn nội bộ giữa 3 anh em Diệm-Nhu-Cẩn mà ông Trần Kim Tuyến viết là chỉ mâu thuẩn  giữa 2 anh em Diệm-Nhu thôi mà đã thành viên đạn nổ vào đầu ông Diệm rồi! Đọc BLMT, tác giả Lê Xuân Nhuận giúp xóa bỏ hận thù Mỹ phản bội VNCH.

II.A.“Vụ gạo miền Trung” tiếp tế gạo cho Cộng-Sản miền Bắc Được nhắc lại trong Cáo Phó tưởng nhớ Linh Mục Trần Hữu Thanh.

Giáo Sư Nguyễn Lý Tưởng, nguyên Dân Biểu Quốc Hội VNCH đơn vị Thừa Thiên-Huế biết rõ chuyện nầy, nên khi L M Trần Hữu Thanh qua đời, Giáo Sư  Nguyễn Lý Tưởng đăng Cáo Phó tưởng nhớ người vừa về nước Chúa, Liên Thành cùng đứng tên, có nhắc đến “vụ gạo miền Trung”. Vậy Liên Thành cũng biết việc nầy nữa mà?
-Tờ Việt Báo ở miền Nam Cali ngày 29/10/2007 đăng CÁO PHÓ tin Linh Mục Trần Hữu Thanh qua đời lúc 92 tuổi (8/8/1915 --24/10/2007)  ở Hà Nội.
Cáo Phó rất dài, nhưng chỉ đọc đoạn vô đầu là thấy Linh Mục Trần Hữu Thanh chống tệ nạn tham nhũng cả thời đệ I lẫn đệ II VNCH. Nguyên văn:
Linh Mục Trần Hữu Thanh qua nhiều giai doạn lịch sử của dất nước, nhất là từ 1945 dến 1975(…) Ngài là tiếng nói ngay thẳng trước những bất công của mọi chế dộ,(…)  là Chủ tịch chống tham nhũng (vụ gạo miền Trung) dưới thời TT Ngô Ðình Diệm, và Chủ Tịch Phong Trào Chống Tham Nhũng (1974 - 1975) dưới thời TT Nguyễn Văn Thiệu.”(Hết trích)
Vậy Liên Thành có gian ý khi đưa ra báo UPI lời của Thích Quảng Độ đòi “hạ bệ” chế độ Nguyễn Văn Thiệu để gọi GHPGVNTN Ấn Quang là Ma Tăng, kích động hận thù chỉ có lợi cho Cộng sản. Bởi vì VNCH đều có nhiều khuyết điểm, nên nhiều đoàn thể và mỗi người một lý do riêng, không phải chống để xin sửa đổi cho xã hội sách sẽ hơn là có tội. Đành rằng mỗi giới đều có trách nhiệm trong việc mất nước, nhưng chỉ gợi lại hành động một phía Phật giáo thôi là ác ý vu vạ.
Đây, tham chiếu Cáo Phó của Gs Nguyễn Lý Tưởng trên Việt Báo, rằng sự bất công dưới cả hai chế độ Diệm, Thiệu còn có cả khối Thiên Chúa giáo chống nữa.
-Nhưng Liên Thành mỗi lần viết về vị LM nầy chỉ viết:

LM Trần Hữu Thanh chủ động dấn thân vào chính trị: đó là năm 1974 ở Sài-gòn. LM Trần Hữu Thanh cùng với 301 Linh Mục khác ký tuyên ngôn lập Ủy Ban Chống Tham Nhũng, chống VNCH
Liên Thành cố trình bày làm cho thế hệ trẻ tưởng thời TT Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu chỉ có bên Phật giáo vì có Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu, Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ  là “Cộng sản” chống VNCH nên mới đưa đến VNCH bị sụp đổ! Còn bên TCG chỉ đến năm 1974 mới ra mặt chống thôi?
http://blip.tv/file/get/Kynguyen2000-LienThanhLMNguyenHuuThanhPhongTraoChongThamNhungChong513.wmv
Chính Linh Mục Trần Hữu Thanh tố cáo thẳng tay Ngô Đình Cẩn là thủ phạm,
          Cho nên Cáo Phó tuy rất dài, nhưng Gs Nguyễn Lý Tưởng vẫn không quên đoạn ngắn rằng  LM Trần Hữu Thanh là  Chủ tịch chống tham nhũng (vụ gạo miền Trung) dưới thời TT Ngô Ðình Diệm”. Vậy  hẳn phải đặc biệt lắm vì nó bị đưa ra tòa, để TT Diệm ngồi xổm trên luật pháp Quốc gia,  khiến lòng dân oán hận.

II.B. Vụ nhà Ngô tiếp tế gạo cho Cộng-Sản miền Bắc được đưa ra tòa.
Tác giả Lê Xuân Nhuận viết rằng: (Trích nguyên văn kể cà gạch nối)
          “Việc phong-kiến,  hũ-lậu, kiêu-căng, hống-hách, tham -ô, nhũng-nhiễu, độc- tài, tàn-bạo, bất-nhân, hiếu-sát.. v.v. mới là chuyện nội bộ Miền Nam.
Nhưng Vụ buôn lậu vượt qua biên giới Quốc Gia là “Cậu”  đã chuyển hàng ngàn tấn gạo ra cho cộng-sản miền Bắc.
Vụ nầy xảy ra từ năm 1956. Người Mỹ biết được nên báo cho Ngô Đình Diệm là  người mới lên làm Tổng -Thống và lớn tiếng hô hào chính sách bài-trừ tham-nhũng và tệ-đoan xã-hội tại Miền Nam. Bởi thế “Lãnh Chúa” Ngô Đình Cẩn không thể chối-cãi. Tuy nhiên để cứu thủ phạm—Bà Cả Lễ và em là “Cậu” Cẩn—người ta đã ngụy tạo một tổ-chức buôn lậu gạo, đổ tội lên đầu Ông Trần-Văn-Mẹo (Bộ -Trưởng Bộ Kinh-Tế và  Ông Bùi-Quang--Sơn (Phó Tỉnh trưởng tỉnh Quảng Nam) vì gạo phải chở bằng tàu thủy từ Sàigòn ra Đà Nẳng- Quảng Nam rồi từ nơi đây mới lọt vào tay đối phương miền Bắc. Vụ án bán lậu, tiếp tế  gạo cho Cộng- Sản miền Bắc được đưa ra tòa.
          Tòa xử ông Bùi Quang Sơn 12 năm khổ sai. Tại Huế, Cẩn không ngờ Sơn—bộ hạ thân tín của mình bị án quá nặng, mất luôn cả sự nghiệp; vì sợ Sơn có thể uất ức khai ra chính phạm, nên Cẩn năn nỉ ông anh-- Tổng Thống Diệm—và rồi, dù án lệnh đã chính thức thành-văn, Diệm cũng bắt Tòa phải xử lại. Song trớ trêu thay, để cứu thuộc hạ mình, Cẩn bèn xúi Diệm truy tố ông Ưng Bảo Toàn, Tổng Giám Đốc Tổng Nha Kinh Tế, thuộc Bộ Kinh Tế.
Thế là Ưng Bảo Toàn trở thành chính phạm, --còn cái án 12 năm khổ sai của Sơn thì được giảm xuống còn 6 tháng tù treo. Dân chúng gọi vụ án nầy là vụ án Ưng Bảo Toàn.”
Dư luận khắp nước, nhất là Miền Trung, vừa chán ngán, vừa oán than, vì dòng họ Ngô Đình đã dẫm đạp lên Công –Lý: Ông Trần-Văn-Mẹo ở trong Nam, Ông Bùi- Quang- Sơn cũng là người miền Nam, vốn không có quan hệ nhân sự nào tại Miền Trung để có thể âm mưu bán gạo cho Việt-Cộng tại Miền Trung, là nơi Ông Ngô Đình Cẩn nắm toàn quyền sinh sát, có thuộc hạ, có đảng-viên Cần-Lao tai -măt khắp nơi từ thành-thị đến thôn-quê.
Viên Chánh-Án đã tuyên-Án nặng cho Bùi- Quang- Sơn, sau đó cũng rời vào Nam không dám ở lại Miền Trung.
Cẩn vì chút tiền bỏ túi mà lén giao thương với địch. Diệm dùng pháp luật quốc gia như công cụ riêng để bênh-vực gia -đình, ngay khi mới lên cầm quyền.
Điều đáng ghi nhận là chính Linh Mục Trần Hữu Thanh, Vị  ngôn sứ “Chủ nghĩa Nhân Vị”, một nhân vật thân cận của chế độ, cũng đã lên tiếng tố cáo các vụ tham-nhũng, đặc-biệt, “vụ gạo miền Trung” nầy. (Hết trích, tr. 236, 237, 238)
(Biến Loạn Miền Trung, LeXuanNhuan@LeXuanNhuan.com)

   III. Chính phủ Ngô Đình Diệm có Chính nghĩa, Hợp hiến, Hợp pháp không?

Nếu đã làm sống lại quá khứ, ta nên can đảm nghe nhiều phía để tìm bài học đoàn kết hơn hận thù, chia rẽ.

III A.Trước hết là hận thù Mỹ:

Chúng ta sau nầy biết rõ và rất hận thù Mỹ đã phản bội Đồng Minh, ra tay giết chết một chính quyền hợp hiến, hợp pháp.
Đúng. Hiến pháp 1956 do Quốc hội biểu quyết ngày 20/10/1956 được Tổng thống Ngô Đình Diệm ban hành ngày 26/10/1956, thành lập nền Đệ nhất Cộng hòa... Nhưng hành động của dòng họ Ngô Đình đã khiến cho Hiến Pháp chỉ còn là hình thức bề ngoài!
Chưa kể biết bao nhiêu oan khiên khác, chỉ điển hình cũng từ năm 1956, “vụ gạo miền Trung” do chính LM Trần Hữu Thanh, một ngôn sứ “Chủ nghĩa Nhân Vị”, một nhân vật thân cận của chế độ tố cáo, Cựu Dân Biểu VNCH Nguyễn Lý Tưởng xác nhận, chinh ông Liên Thành cũng biết nữa; thì không thể cho là do “kẻ thù” cố tình thêu dệt để bêu xấu chế độ được.
 Vụ gạo miền Trung” biến thành “vụ án Ưng Bảo Toàn”oan ức cho nhiều gia đình vô tội mà ông Lê Xuân Nhuận tường thuật: Án đã chính thức thành văn mà TT Diệm cũng bắt Tòa phải xử lại. Thì ra “dân oan”  lại chính là nhiều nhân viên phục vụ chế độ, trong đó có Viên Chánh-Án đã tuyên-Án nặng cho Bùi- Quang- Sơn, sau đó cũng phải “rời vào Nam không dám ở lại Miền Trung.”. Thì ra  tình trạng “dân oan” đã có dưới thời Đệ I VNCH!
Ông  cựu Giám Đốc Cảnh Sát Đặc Cảnh kết luận “Bà Cả Lễ và Cẩn chính là thủ phạm vì chút tiền bỏ túi mà lén giao thương với địch. Diệm dùng pháp luật quốc gia như công cụ riêng để bênh-vực gia -đình, ngay khi mới lên cầm quyền.”
Thủ phạm “Bà Cả Lễ” là ai?” Là em gái Ngô Đình Thị Hoàng của Tổng Thống, nhạc mẫu của Bộ trưởng Quốc Phòng Trần Trung Dung cũng thời Diệm.
Vậy như Liên Thành nguyên Trưởng Ty Cảnh Sát Quốc Gia tại Huế, hay ai khác có bằng chứng gì trái lại, thì hãy trao đổi thẳng thắng với  ông Lê Xuân Nhuận, tốt nhất là gởi theo chỉ 10 Mỹ- kim cước phí để đọc toàn vẹn quyển “Biến Loan Miền Trung” theo địa chỉ Email trên để đọc cho chính xác, chứ chúng tôi –Nguyễn Việt Nữ--chỉ tóm tắt,  hoàn toàn không biết gì.
Nhưng một điều chúng tôi biết là cố khách quan phân tách để xóa bỏ hận thù Mỹ phản bội và hận thù tôn giáo mà đoàn kết lo bảo vệ đất nước.
Ta cứ tưởng lâu nay chỉ vì TT Diệm cương quyết “Bảo vệ chính nghĩa dân tộc” không cho Mỹ đổ quân vào miền Nam nên giết một chính phủ hợp pháp, hợp hiến. Chính chúng tôi cũng tin như vậy. Nhưng ông Lê Xuân Nhuận lại chứng minh là TT Diệm dẫm đạp lên Luật pháp, Hiến pháp Quốc Gia!
Hơn nữa, Văn phòng Cố Vấn miền Trung do ông Ngô Đình Cẩn lãnh đạo, còn VP Cố vấn Trung ương do ông Ngô Đình Nhu toàn quyền sanh sát toàn quốc,  có nằm trong cơ chế ghi trong Hiến Pháp không?
Việc một chính phủ phải lập đảng hay dựa vào một đảng để hoạt động là bình thường. Nhưng Đảng Cần Lao Nhân Vị là gì? Sao không công khai hoạt động? Sao hoạt động bí mật? Nguồn tài chánh nào yểm trợ?
Nếu không sổ sách, không ngân sách –do nguồn tài trợ bất chính hay dùng tài sản Quốc Gia nuôi đảng?--và dân không có quyền biết, nhưng lại có toàn quyền như ông Lương Khải Minh Trần Kim Tuyến và Lê Xuân Nhuận kể (Sẽ tham chiếu sau), thì hai Văn phòng cố vấn và đảng CLNV nằm ngoài vòng pháp luật trong khuôn khổ Hiến Pháp 1956 do chính Tổng Thống ban hành.
Chính Tổng Thống Ngô Đình Diệm cho phép thân tộc mình Vi Hiến!
Hãy thảo luận với ông cưu Giám Đốc Cảnh Sát Đặc Cảnh Lê Xuân Nhuận.

II.B. Xin nhớ lại  năm 1954 do Hiệp định Geneve chia đôi Nam Bắc:
          Hoa Kỳ đã dồn hết nhân lực, vật lực ủng hộ TT Diệm, chính họ có Hạm đội tuần dương kiểm soát  vùng  Vịnh Bắc Bộ, nên  khám phá ra việc chở lậu hàng ngàn tấn gạo “vượt biên” vào vùng Cộng Sản Bắc Việt! Để làm gì? Phải tạo đường dây bè đảng đầu cơ tích trử  buôn lậu làm gạo trong xứ lên cao giá, tròng cái ách khổ cho đại đa số dân nghèo, mà còn nuôi sống Cộng Sản Bắc Việt nữa! Nếu vậy làm sao thắng Địch? Mà tình trạng tham nhũng hại dân nầy kéo dài bao lâu?
Như trên chính Liên Thành biết, LM Trần Hữu Thanh là Chủ tịch “Phong Trào Chống Tham Nhũng” chỉ đích danh Cố vấn Ngô Đình Cẩn của Đệ Nhất Cộng Hòa, sang thời Đệ Nhị Cộng Hòa của TT Nguyễn Văn Thiệu còn có Hội Đồng Giám Mục 301 Linh Mục nữa!
Vậy suốt thời gian từ khi Mỹ thấy dấu đoàn tàu “lạ” (kiểu Việt Cộng gọi Tàu Trung Cộng ) chở  gạo “Vượt biên” ra Bắc năm 1956 tới năm 1973 bức tử VNCH bằng Hiệp ước Paris, dài tới 17  năm (1956—1973). Đó là chưa kể từ năm 1954 chia đôi Nam Bắc, Cộng Sản cố tình gài người lại miền Nam, Bắc Việt có cả Liên Xô và Trung Cộng yểm trợ. Vậy liệu TT Ngô Đình Diệm một mình chống cự nổi không?
Đành rằng không nên nhờ cậy ngọai bang, phải dựa vào sức mạnh của dân tộc mình, nhưng lòng dân đã quá rã rời từ năm 1956, đã lạnh nhạt với những chương trình của Tổng Thống. Vậy chẳng cần quân đội Mỹ, chỉ cần giúp tài chánh thôi? Mà tiền chỉ vào túi tham nhũng và nuôi Cộng Sản?
Mỹ đổ bao nhiêu xương máu và tiền thuế của dân họ để phục vụ cho cả hai trào tham nhũng, họ muốn chánh phủ cải tổ dân chủ hơn, dân cũng muốn vậy để bới độc tài gia đình trị. Nhưng họ thất bại. Tức nhiên nửa đoạn đường thôi là Cường quốc lãnh đạo Thế giới  Tự Do phải khôn ngoan tìm lối thoát cho  dân họ và chiến lược thế giới của USA chứ? Phải chăng Thông cáo Thượng Hải tháng 2 năm 1972  Nixon-Mao  là một công hai việc của lối thoát ta từng tủi hận đó?
Có thể nào ta bảo Mỹ “Anh  phải tiếp tục đổ tiền vào viện trợ như đã hứa vì anh đâu biết Việt Cộng còn tham nhũng ngàn lần hơn VNCH tôi nữa?” Dân Mỹ có chịu nghe không? Nghĩ lại mấy ông Tổng Thống Mỹ cũng rất bầm vập với đám biểu tình phản chiến, với Quốc hội của họ trong  17 năm dài!
Ta đã biết tiếng nói của dân Mỹ (Quốc Hội) rất mạnh như chuyện Cộng Đồng Việt Nam hải ngoại vận động để được 38 dân biểu Hoa Kỳ, Đài SBTN phát động ít nhất 10 ngàn đơn gởi TT Barack Obama,  Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ GHPGVNTN cũng gởi thơ cho TT Obama kể rõ tình trạng đàn áp tôn giáo và nhân quyền tại VN càng tồi tệ để yêu cầu ông chủ nhà Obama nói giùm tiếng nói dân Việt khi Chủ tịch XHCN Trương Tấn Sang vào Tòa Bạch Ốc ngày 25 tháng 7 năm 2013. Biết Mỹ làm gì cũng vì quyền lợi xứ họ, của dân họ;  nên người Mỹ gốc Việt  dùng sức mạnh của lá phiếu bầu như vũ khí Dân Chủ nhờ  Quốc Hội và Tổng Thống Mỹ làm “áp lực” với Cộng Sản thả tù chánh trị và mở cửa cho Dân Chủ.

III.B. Về hận thù giữa hai tôn giáo Phật và Chúa.

Thế hệ trẻ  sau nầy chỉ đọc sách để hiểu quá khứ, còn người từng sống trong thập niên 1960s, 1970s đều nghe rất nhiều về “gia đình trị” và “đàn áp Phật giáo”.

III.B.1. Ai làm hại Ngô triều nhất?

Trong cuộc mạn đàm giữa hai nhân vật phục vụ dưới trướng nhà Ngô là ông Lâm Lễ Trinh với cựu Đổng lý Văn Phòng Quách Tòng Đức: “Chín năm bên cạnh TT Ngô Đình Diệm”, Tiến sĩ Lâm Lễ Trinh hỏi: trong gia đình họ Ngô, ai là người gây tiếng tăm bất lợi cho chế độ, suy nghĩ một phút, ông Đức đáp: “TGM Thục và bà Nhu. Đặc biệt trong giai đọan Phật giáo. Đức cha ảnh hưởng quá nặng ngoài lãnh vực tôn giáo. Bà Nhu xen quá sâu vào chính trị, điều ít thấy trong giới phụ nữ VN.”(Hết trích)
Gần đây chúng tôi đọc thấy  bài “Tổng Thống Ngô Đình Diệm: Làm Chùa Thì Cho Ngay” Tháng Mười Một 2, 2012  Tác giả: muoisau
Tác giả muoisau có nhắc đến chính Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục  phủ nhận ba chữ “gia đình trị”  bằng cách so sánh rằng “khi Tổng Thống Kenedy (đảng Dân Chủ) bước vào Tòa Bạch Ốc, ông ta cũng tìm cách đưa em ruột ông ta là Robert Kennedy vào nội các của ông ta qua chức vụ Bộ Trưởng Tư Pháp.” (Hết trích)
Nhân đây chúng tôi xin nhắc thêm rằng Đức Cha nói mà chưa nói hết về gia đình Kennedy để dễ so sánh giữa dân chủ và độc tài gia đình trị để ta có thể đi đến đồng thuận, xóa bỏ hận thù Hoa Kỳ và tôn giáo.
Thượng Nghị sĩ John F. Kennedy của Boston, Massachuttett đắc cử vào Tòa Bạch Ốc tháng 1 năm 1961. Lập nội các mới của ông, đúng, có em ruột là Robert Kennedy làm Bộ Trưởng Tư Pháp. Nhưng ông phải qua điều trần với Thượng Viện, được chuẩn thuận mới xong. Còn người em út là Edward Kennedy nữa mới đáng nói mà Cha Thục lại quên. Cái ghế trống Thượng Nghị sĩ ở Boston, Massachuttett anh mình bỏ khi đi làm Tổng Thống năm 1961 thì năm 1962 Edward Kennedy ứng cử, dân bầu vào ngồi ở đó 47 năm cho tới chết (1962—2009).
Không phải cứ ngồi ì mà được, vì theo luật định, mỗi 6 năm ông ta lại phải nộp đơn tranh cử, xin dân bầu cho tái cữ. Còn Robert Kennedy cũng phải được dân OK (Thượng Viện cũng do dân bầu). Tóm lại, hai anh em nầy sở dĩ được dân bầu vì họ biết khả năng có thể phục vụ họ.
Còn hai ông Cố vấn Nhu, Cẩn có gì? Nhất là Cẩn, người ít chữ nhất trong anh em dòng họ Ngô Đình mà lại nắm quyền huy cũng không chỉ giới hạn ở miền Trung thôi đâu. Ai cho phép ông làm điều đó? Dân không được biết tới thì chế độ nhà Ngô là gì? Đáng lẽ chúng tôi không nên thừa phí đi so sánh với gia đình Kennedy làm gì. Nhưng cho đến lễ Giỗ chí sĩ Ngô Đình Diệm năm 2012  tại Cali mà chúng tôi đọc thấy bài diễn văn hảnh diện kể rằng TGM Ngô Đình Thục so sánh như vậy!

III.B.2 Thêm sử liệu để xóa bỏ hận thù “đế quốc” Mỹ.

Thiết tưởng hãy thành tâm tìm lại những sự nghiệp lớn mà Thượng Nghị sĩ Edward Kennedy ngồi “lì” 47 năm cho đất nước gồm những gì?
Nếu ông ta không lợi thì cũng không tiếp tay xô ngả Ngô triều như ông cựu Đổng lý Văn phòng Quách Tòng Đức “phê”: “TGM Thục và bà Nhu”.

Đơn cử một sự kiện lịch sử gần nhất để ai cũng kiểm chứng được là:
Khoảng tháng 5 năm 2008 trong vòng sơ bộ của Đảng Dân Chủ chỉ còn hai gà nhà “đá” nhau là bà Hillary Clinton và Barach Obama tranh nhau để được đảng chọn là ứng cử viên đại diện đảng Dân Chủ tranh cử Tổng Thống với đảng Cộng Hòa. Bà Clinton từng là Đệ Nhất phu nhân tới 8 năm, kinh nghiệm và dân Mỹ ai cũng biết tiếng, còn Obama mới ra lò, ít người biết. Nên người ta chắc chắn ông Bill Clinton sẽ là Đệ Nhất phu…Quân!
Để được nhiều phiếu, bà Hillary tấn công đối thủ là có nguồn tin cho biết ứng cử viên Obama còn liên lạc với nhóm khủng bố nội địa Bill Ayers Underground-Black Panther giúp ứng cử. (Khủng bố nội địa Black Panther là đảng Cộng Sản Mỹ Đen do Tom Hayden—sau là chồng của Jane Fonda—khởi xướng chống chính phủ, chiếm đất đại học Berkeley tại miền Bắc California, lập căn cứ của “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam tại Hoa Kỳ”. Khiến Thống Đốc Cali trong chiến tranh Việt Nam là Ronald Reagan (1967—1975) 8 năm cầm quyền phải ra tay đánh giặc..Mỹ Cộng! Những người Mỹ Đen quá khích vùng Vịnh như Oakland, Berkeley viết sách tựa là “Berkeley at War” trong đó họ dùng chữ “Pig” để gọi người tư bản, nhà giàu, White;  còn họ là nhà nghèo, vô sản, Black.  Cán Bộ Đảng Cộng Sản Mỹ Đen Black Panther từ đó gọi bọn tư bản da trắng là “con heo” đáng bị “Giết, nướng và ăn thịt” (Slaughtered, roasted, eaten).

III. B. 3. Tóm lại chữ “Pig” dùng dưới thời Thống Đốc R. Reagan:
 để chỉ mối thù giữa White và Black. Vậy mà đến năm 2008 khi  bị Hillary nhắc tới mình dính líu với Underground-Black Panther, Obama vẫn còn nhớ, nên lựa dịp chửi xéo: “Dù cho con heo có thoa son môi thì vẫn là…con heo” (A Pig who wears lipstick is still a Pig). Khiến cho Thượng Nghị sĩ John McCain, tuy là đảng  Cộng Hòa, nghe vậy cũng lên tiếng đòi Barack Obama phải xin lỗi vì ăn nói với phụ nữ như vậykhông thể chấp nhận.
Cuối cùng gần tới vòng chót, chỉ một lá phiếu của Edward Kennedy chọn Barack Obama, bỏ rơi Hillary Clinton, làm mọi tiên đoán đều sai.
Barack Obama chính thức  được chọn là ứng cử viên đại diện đảng Dân Chủ tranh cử Tổng Thống. Rồi đắc cử và tuyên thệ vào Tòa Bạch Ốc tháng 1 năm 2009.
Cả con “Đệ Nhất Chó” tên Bow cũng do Edward Kennedy tặng cho chủ nhà USA mới trước khi ông về nước Chúa cũng năm 2009 đó.
Đối với người Việt Nam, nếu hai người “choảng nhau” hết cở như vậy, chắc không thèm nhìn nhau, nhưng tân Tổng Thống Obama  còn mời Hillary Clinton trở lại nhận ghế Bộ Trưởng Ngoại Giao trong nội các ông ta. Bà chần chừ rồi cũng nhận và đã làm hết lòng suốt nhiệm kỳ I của Obama rồi xin từ nhiệm (Thay bằng John Kerry ở nhiệm kỳ II hiện giờ)
Chưa hết, Barack Obama vừa tiếp khách “phương xa” là Trương Tấn Sang ngày 25 tháng 7 năm 20013 thì chỉ 3 ngày sau, tức ngày 28 tháng 7, người ta thấy Obama lại tiếp “láng giềng” gần là bà Hillary Clinton tại khu vườn sau Tòa Bạch Ốc với thức ăn đơn giản nhưng trong không khí thân ái.
Dư luận biết là một thăm dò quan trọng, tìm người tranh cử Tổng Thống năm 2014 khi ông đương kim Tổng Thống hết nhiệm kỳ 4 năm sau cùng.
Biết đâu trong tương lai Hoa Kỳ sẽ có Nữ Tổng Thống đầu tiên?

IV. Cuộc chiến VN: Tư bản Mỹ cũng bị Mỹ Cộng khủng-bố

TGM Ngô Đình Thục so sánh dòng họ Ngô Đình với dòng họ Kennedy.
Nhưng  vì sao Tổng Thống JF Kennedy, một lãnh đạo người Thiên Chúa giáo giữa đất nước Tin Lành USA, sau khi muốn Tổng Thống Diệm phải ném xa ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu đi nhưng thất bại, tay chân JF Kennedy đành phải giết chùm cả hai anh em người cùng thuần thành với Tòa Thánh La Mã và chính TGM Ngô Đình Thục cũng bị Giáo-Hoàng Paul VI dứt phép thông-công, cũng vì vụ Phật giáo. Vì sao?
Nói đến TGM Ngô Đình Thục, cần 20 trang dài nữa, chúng tôi sẽ trở lại khá chi tiết về Ngài. Liên quan đến chuyện từ thế kỷ thứ XIX xa xôi.

IV.A.1. Còn Lịch sử Việt gần nhất:
Nếu gặp những phong trào nhân sĩ dựa vào Hiến Pháp năm 1956 của “Chính Phủ VNCH do em tôi lãnh đạo” [nguyên văn lời TGM Ngô Đình Thục trong vài viết “Tổng Thống Ngô Đình Diệm: Làm Chùa Thì Cho Ngay” Tháng Mười Một 2, 2012  Tác giả: muoisau]
Thì TT Diệm đã làm gì để chứng tỏ mình thực thi Hiến Pháp 1956 rất dân chủ, có tam quyền phân lập do chính  mình ban hành. Giản dị là dám làm những việc tối thiểu như  em của Tổng Thống JF Kennedy là TNS  ngồi “Lì” Edward Kennedy:
Bỏ con Pig White vang danh Hillary Clinton để chọn con Pig Black Barack Obama. Rồi Obama dám bỏ qua hận thù người Pig White từng tố cáo mình dùng tiền của nhóm khủng bố nội địa Underground Bill Ayers mà chính phủ Hoa Kỳ thời Chiến tranh Việt nam đã đăng giải thưởng và hình  tên khủng bố nguy hiểm nhất nước Mỹ mà ứng cử viên Phó Tổng Thống Sarah Palin năm 2008 cũng tố cáo, rồi trong buổi tranh luận cuối tháng 9/2008 giữa hai ứng cử viên tranh ghế Tổng Thống có truyền hình  cả chục triệu người nghe, ứng cử viên Cộng Hòa TNS John McCain chính thức hỏi Barack Obam về việc nầy. Ứng cử viên TNS Obama trả lời: Lúc xảy ra tôi mới 8 tuổi, nào biết gì, nhưng sau nầy đọc biết được chính  tôi cũng khinh tởm hắn mà!
Đó là đảng khủng bố nội địa thời chiến tranh Việt Nam chấm đứt từ 1975.


IV.A.2. Nhưng đến đúng ngày tang thương 911 của nước Mỹ,:
tức ngày 11 tháng 9 năm 2001, vì cớ gì tên khủng bố từng bị chính phủ Mỹ tầm nã cả chục năm trời phải tự chôn dưới lòng đất nghĩa địa để trốn…, nhưng  Bill Ayers lại xuất bản quyển “Fugitive days” (Những ngày trốn chạy)
Thảm thương tay cho mấy chục triệu dân Việt, miền Nam khổ với Ngô Triều, miền Bắc với Cộng Sản HCM.  Nhưng chính phủ Mỹ từ Thống Đốc Ronald Reagan ở Cali và chính phủ Liên Bang Richard Nixon cũng tả xung hữu đột với đảng Black Panther--Bill Ayers--Osama bin Laden- khủng bố nội- địa nầy.
Đúng ngày 11 tháng 9 năm 2001, khi ba chiếc máy bay phản lực cất cánh trên đất Mỹ, quật tỏa tháp đôi Thương mại Quốc Tế (WTC) tại Nữu Ứớc thành bình địa, thì Bill Ayers cho ra mắt kịp thời quyển “Fugitive Days”
Khủng bố Bill Ayers diển tả đám biểu tình chống chiến tranh Việt Nam và ca vang: “HO, HO, HO CHI MINH. THE NLF IS GOING TO WIN! (Page 168) và “Every Weatherman read Malcolm X, (Cộng Sản Mỹ), the poetry of Ho Chi Minh, framed black-and-white photo of Che (Cộng Sản Cuba và anh hùng của Châu Mỹ Mỹ-Latinh và Nam Mỹ) (Fugitive Days, page 254).
Lúc ấy mặt trận Mỹ Cộng giựt dây cho đám biểu tình phản chiến tố cáo Nixon nói láo để mở rộng chiến tranh, y như Tổng Thống W. Bush bị ghét bỏ trong chiến tranh Iraq vậy.
Chính Ayers viết rằng: từ năm 1969 đến  1970  tổ chức của ông ta đã thực hiện hơn 40,000 sự đe dọa, toan tính và thật sự đã đặt bom chống chính phủ và các cơ sở như Ngũ Giác Đài, Quốc Hội, phi trường, các trường học, ngân hàng, sở tuyển dụng quân dịch, trạm cảnh sát và những mục tiêu khác trên tòan nước Mỹ để đòi Hoa Kỳ rút quân khỏi Việt Nam. Trung bình 6 vụ nổ bom mỗi ngày. Ông biện hộ rằng hành vi đó không phải là khủng bố, vì nhóm ông ta chỉ nhắm vào tài sản chứ không phải con người! (…) Tôi không hề hối hận chút nào, còn thấy là chưa làm đủ. … (Fugitive Days, p. 228).
Có phải nhóm Mỹ Cộng nầy đã giao Việt, Miên, Lào vào tay Cộng Sản không? Ở Việt Nam còn có tình báo Phạm Xuân Ẩn, Vũ Ngọc Nhạ v.v.nằm ngay trong tay Cố vấn Ngô Đình  Nhu, em của TGM Ngô Đình Thục mà?
Viết dài như vậy để mong thật sự chúng ta hết thù hận Mỹ chẳng những bỏ rơi đồng minh mà còn giết anh em TT Diệm.

IV. B. Bởi người tuổi trẻ tài cao Liên Thành  :
đã vạch trần được tội không bảo vệ an ninh cho đất nước của Ngô triều:… Hoàng Kim Loan là điệp viên suất sắc của Cộng Sản, hoạt động trong lòng địch gần 20 năm. Trong 15 năm đầu, không một cơ quan tình báo nào của Chính phủ VNCH phát giác được hắn.
Liên Thành chỉ lên án chung chung “Chính phủ VNCH” vô dụng.
Nhưng chính TGM Ngô Đình Thục lại điểm danh ai bất tài vô dụng: “Chính Phủ VNCH do em tôi lãnh đạo”. “Em tôi” là Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Phải chăng đây là lời thú tội”?
Trong Biến Động Miền Trung, Liên Thành cũng có tên tình báo Phạm Xuân Ẩn, Vũ Ngọc Nhạ mà sau nầy được Trung ương Tình báo của Ngô Đình Nhu nuôi mập.
Vậy xin bất cứ ai trong nhóm tồn Ngô Liên Thành, như ông Trần Minh nào đó vì “quá yêu nước” nên hận thù Thích Quảng Độ, nói chung là thù các Sư Tăng GHPGVNTN, có bớt cơn thịnh nộ chưa? Nếu vẫn chưa thì có nên làm theo các con chiên Chúa, vỗ ngực xưng tội mỗi ngày: “Lỗi tại tôi! Lỗi tại tôi mọi đàng?” để tâm hồn được an vui?

IV. C. Nhìn gia đình người xong, hãy nhìn lại chính mình: khi TGM Ngô Đình Thục dùng chuyện gia đình JF Kennedy để biện hộ cho rằng anh  em “Thục-Diệm-Nhu-Cả Lễ--Cẩn” không phải là chế độ Gia -Đình -Trị.
Thì nhà Ngô có làm được như em Út Edward Kennedy, bỏ Heo Trắng lấy Heo Đen. Rồi khi bị Heo Trắng tố mình giao du với nhóm khủng bố tội đảng xử tử như Bill Ayers thì Heo Đen còn  dám mời Heo Trắng cùng gánh chung việc đất nước với mình, mà lại giao công việc quá quan trọng,  là Bộ Trưởng Ngoại Giaotrong 4 năm,  mà ngày 28/7/2013 còn nhấm nhía để  có thể  đưa heo Trắng vào làm chủ Tòa Bạc Ốc kỳ nữa! “Gia -Đình -Trị” Kennedy đối với người đối lập như vậy.
Còn chế độ không có “Gia-Đình Trị” của dòng họ Ngô Đình xử sự với người khác chính kiến, nói chung là đối lập, không tối nguy hiểm như tên Khủng -bố- Osama- bin -Laden nội-địa; đối lập Việt Nam chỉ vì không chịu hể mỗi khi Cố vấn ra lệnh là ngoan ngoãn “Vâng, dạ” cho yên thân. Nên cũng như Mỹ, họ chỉ xin mở rộng thành phần chính phủ mới chống Cộng mạnh được, như nhóm “Caravelle” chẳng hạn. Thì chế độ Không “Gia-Đình Trị” Thục-Diệm-Nhu-Cẩn  làm gì?
Đáp:Giam hết họ vào địa ngục Chín hầm ở Huế, vu khống  họ là Cộng Sản muốn giựt sập chế độ. Còn ở Trung ương Saigon thì lùa ra tắm biển ở…nhà tù Côn Đảo! Nên lịch sử Việt trong thời Ngô Triều có hai vụ Tự Tử vang rền thế giới.
Ai không tin xin tìm đọc kỳ tới.
Vì bài kỳ nầy đã quá dài, xin phép tạm ngưng, hẹn sẽ nêu bằng chứng lịch sử bị chôn vùi nửa thế kỷ qua do chính người Thiên Chúa  Giáo nêu ra.

San Jose, California, 30 tháng 7 năm Quốc Hận Thứ 38 – 2013

Nguyễn Việt Nữ