Tuesday, October 30, 2012



   
Liên Thành và tội ác
                                                                                Trần Việt

 Bài 1:  Phan quang Đông – nhân vật thần thánh của Liên Thành 
                                                                         
Theo quyển “Biến động Miền Trung “ (BĐMT) do Liên Thành đứng tên tác giả, Tập san Biệt Động Quân xuất bản, điều hành bởi cựu Đại Úy Nguyễn văn Học nguyên Đại Đội Trưởng Địa Phương Quân tại Cát lái Quận Nhà Bè Sài Gòn, nguyên Sĩ Quan Biệt Động Quân (BĐQ) Huấn luyện viên tại Huấn Khu Dục Mỹ - Nha Trang, và ông Trần Tiển San cựu sĩ Quan BĐQ con của cựu đảng viên cao cấp Cần Lao Trần Điền. Ông Trần Điền nguyên Dân Biểu thời ông Ngô đình Diệm làm Tổng Thống, Tập BĐMT xuất bản tháng 5 năm 2008. Mục đích của tác giả lẫn cơ sở xuất bản, và những người ủng hộ Liên Thành đều tuyên dương “sự thật”. Nơi trang 3 nhà xuất bản viết rằng: ”Vì không có ai nói ra sự thật, nên bọn gian manh càng tung ra những luận điệu xảo trá, những ngụy tạo, lèo lái dư luận và cả lịch sử theo con đuờng có lợi cho cộng sản, vu khống người quốc gia, gán cho chúng ta những tội danh vu khống không tưởng. Vẫn chưa có ai lên tiếng”.
Theo lập luận nầy thì có hai nhóm người, đó là: Nhóm vu khống, nhóm nầy thuộc về cộng sản hay làm lợi cho cộng sản. Nhóm thứ hai mà nguời viết gọi là “chúng ta”, hàm chứa là người Quốc Gia những nạn nhân, những người có nghĩa vụ bênh vực chính nghĩa, mà Liên Thành đang đại diện. Liên Thành và những người ủng hộ đặt ra định đề rằng Liên Thành mới chính người đại diện duy nhất cho chính nghĩa Quốc Gia Dân Tộc, trách nhiệm của nguời có lương tâm phải đứng về phía Liên Thành. Ai không đồng ý với Liên Thành đương nhiên là kẻ thù Dân Tộc. Nhân xưng đại danh từ ngôi thứ nhất số nhiều”chúng ta” còn hàm chứa chân lý và tình cảm. Cuối cùng, tác giả tiếc là vẫn chưa có người lên tiếng!. Phần cuối lời giới thiệu là uớc mong: ”Trừ gian, diệt bạo” . Tác giả xót xa thương cảm, mong muốn trả lại “công bằng cho những người từng” ngậm đắng, nuốt cay”, trong mê hồn trận của những tay sai, những con buôn chính trị.
Hưởng ứng lời kêu gọi thiết tha trên đây, hôm nay chúng tôi xin góp mặt, xin được đồng hành với quý vị trên con đường chông gai gian khó để cùng nhau đưa tội phạm ra trước tòa án – đầu tiên là tòa án lịch sử dân tộc.
Hầu hết những gì chứa đựng trong BĐMT đều cố gắng đưa ra hình ảnh, lý luận nhằm dẫn đến kết án tổ chức Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) và Liên Thành gọi là Phật Giáo Ấn Quang mà tập trung vào hai vị lãnh đạo cao cấp Phật giáo là Thượng Tọa Thích Đôn Hậu, và Thượng Tọa Thích Trí Quang – Chúng tôi dùng Giáo cấp Thượng Tọa cho thích hợp thời điểm Liên Thành đưa ra, nhưng  nay thì Thượng Tọa Thích Đôn Hậu đã là Hòa Thượng từ lâu, ngài là Đệ Tam Tăng Thống của GHPGVNTN, trước khi viên tịch ngài đã chọn Hòa Thượng Thích Huyền Quang để truyền thừa sứ nệnh hành hoạt, phục hưng GHPGVNTN. Sau đó, Hòa Thượng Thích Huyền Quang đuợc giáo cử trọng trách Đệ Tứ Tăng Thống và cộng sự của Ngài là Đại lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ hiện đang tíếp tục lãnh đạo Giáo Hội với chức danh Đệ V Tăng Thống, và Hòa Thượng Thích Viên Định là Viện Trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN đang trực tiếp đương đầu với bạo quyền cộng sản Việt Nam, chấp nhận bao hiểm nguy hầu hòan thành trách nhiệm vô cùng cao quý, vô cùng gian nan, cùng với tòan dân bảo vệ Tổ Quốc, phát triển xã hội hưng thịnh, phục họat GHPGVNTN, tất cả vốn dĩ là tôn chỉ  mà Đức Đệ Tam Tăng Thống Thich Đôn Hậu đã khởi động từ ngày Tổ Quốc bị Quốc nạn và GHPGVNTN bị pháp nạn bởi cộng sản.
Trong phần nầy chúng tôi xin đề cập phần Liên Thành trình bày về chuyện xảy ra ở Quỳnh Lưu vào năm 1956.
Mở đầu chuổi tội ác Liên Thành tưởng tượng gán ép cho Phật Giáo, mà hệ lụy đầu tiên là cộng sản thảm sát trên tòan lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) khốc liệt nhất là tại Cố đô Huế dẫn đến di lụy là sự sụp đổ của VNCH, đưa đất nước đến lâm nguy, tòan dân tang tóc thê luơng, Liên Thành vu khống Phật Giáo qua hai Thượng Tọa Đôn Hậu và Trí Quang nhận lệnh tên Trung Tá điệp báo Hòang Kim Loan giết chết ông Phan Quang Đông người điều khiển điệp báo Miền Nam.
Chúng tôi xin cùng với quý độc giả tìm xem:
- Sự kiện Qùynh Lưu có đúng như lời cáo gíác và buộc tội của Liên Thành không ?.
          - Phan quang Đông bị xử tử hình vì những họat động tình báo cho VNCH  hay vì lý do khác ?
 - Mục đích của Liên Thành khi đưa ra sự kiện nầy?
 -  Sau cùng, tại sao trong BĐMT lại có phần Quỳnh Lưu và qua đó chúng ta thử xem có phải Liên Thành là tác giả của BĐMT không ?                                                 
           Để tiện việc theo dõi của qúy độc giả, sau mỗi phần trích dẫn, chúng tôi đều có phần nhận định và hân hạnh cùng độc giả định vị giá trị quyển BĐMT cũng như  tư cách của Liên Thành.
                                                             
*
A/ Điệp Báo Miền Nam chỉ huy vụ Quỳnh Lưu khởi loạn
      Vin phần tả cảnh trụ sở “Điệp báo Miền Nam” do Phan quang Đông chỉ huy, Liên Thành cho biết nhiệm vụ của Phan quang Đông như sau:”Đạo diễn chính vụ nhân dân Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An nổi dậy chống chính quyền Miền Bắc vào năm 1956là một thí dụ điển hình công tác và nhiệm vụ của cơ quan nầy(trang 6-BĐMT)
Bắt chước Lữ Phương lấy hình ảnh tiên nhân đạo cốt để mô tả và đánh đồng cho Hồ chí Minh. Liên Thành gợi cho người đọc nhìn Phan quang Đông như là chàng  thư sinh nho nhã trong sạch, bình dị, không tham vọng nhưng ẩn chứa bên trong sự thông minh, tài năng lỗi lạc, khả năng tình báo ưu hạng, tinh thần ái quốc cao cả.
Hãy nghe Liên Thành tả về Phan quang Đông :”Ít ai biết được chàng thư sinh nầy đi giờ nào và về giờ nào, nếu có tình cờ thấy anh ta đang đạp chiếc xe đạp lọc cọc đi làm, thì cũng nghĩ rằng anh ta chỉ là một thầy giáo hay là một công chức nghèo. Chàng thư sinh nầy chính là ông Phan Quang Đông, người chỉ huy một cơ quan Tình Báo Tối Mật của Quốc Gia, với những Điệp vụ phía Bắc vĩ tuyền 17. Ông ta là chủ nhân của ngôi biệt thự màu hồng, một nhân vật thượng đẳng, một bông hoa Hồng hiếm quý của Tình Báo Miền Nam” (trang 7 – BĐMT).
          Với Liên Thành thì Phật Giáo phạm vô vàn tội ác, xin trích  một đoạn Liên Thành tố cáo tội ác Phật giáo. Qua sự tố cáo tội ác nầy, Liên Thánh cố tăng thêm gia vị cho câu chuyện; tăng lên nổi thảm nạn phẫn hận cho nhân vật chỉ huy tối cao của tình báo chiến luợc miền Nam xâm nhập miền Bắc, nhân vật thương đẳng kiệt xuất của Liên Thành – Liên Thành viết:
” Tại Huế một vài ngày sau khi cuộc Cách Mạng lật đổ Tổng Thống Ngô Đinh Diệm, theo lệnh của Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu, hằng chục ngàn Phật Giáo đồ ồ ạt xuống đường biểu tình hoan hô, đả dảo, truy bắt Cần Lao, truy bắt Công An, Mật Vụ Nhu Diệm, Cấp chỉ huy các đơn vị tình báo của Ty Công an Thừa Thiên Huế và Đoàn Đặc Nhiệm công tác miền Trung, kẻ bị bắt tống giam vào lao Thừa Phủ, kẻ bị sa thải, kẻ thì bỏ trốn. Chỉ Huy Trưởng Cơ Quan Điệp Báo hoạt động tại miền Bắc là Phan Quang Đông cũng chung số phận” (Trang 7 BĐMT).

Nhận định riêng của người viết:

1/Thời điểm năm 1956, Phan quang Đông là viên chức cao cấp, có trọng trách chỉ huy điệp báo miền Nam tấn công miền Bắc, là bông hoa hồng hiếm quý là cấp chỉ huy thượng đẳng thì làm sao lúc đó Liên Thành dù với ba ngày sinh khác nhau là:
- Nếu Liên Thành sinh năm 1940 thì  Liên Thành mới 16 tuổi
- Nếu Liên Thành sinh năm 1943 thì  Liên Thành là 13 tuổi.
- Nếu Liên Thành sinh năm 1946 thi  mới 10 tuổi
(Trích Nhật Ký Diễn Đàn Trần Kiên Cường Feb. 17, 2010 : - Trang 205 BĐMT, Liên Thành viết: Đến tháng 5 năm 1972 Hoàng kim Loan vừa đúng 56 tuổi".(1972-56=1916) .Trang 208, Liên Thành cho biết thua Hoàng Kìm Loan 30 tuổi. Vậy Liên Thành sinh năm 1946. (1916-30=1946) - Trang 107, Liên Thành học lớp đệ nhị B2 tại trường Quốc học Huế, niên khoá 57-58". Ít nhất 17 tuổi mới được học đệ nhị (1957-17=1940) vậy Liên Thành sanh năm1940.Trang 108, Liên Thành là bạn học tiểu học với Nguyễn đắc Xuân, giấy khai sanh của Xuân là năm 1943. Vậy, Liên Thành sinh năm 1943 (???) Kết cuộc, có 3 Liên Thành, một sinh năm 1940, một sinh năm 1943, một sinh năm 1946)
     Với ba ngày sinh này, thì dù mẹ Liên Thành sinh Liên Thành ngày nào, Liên Thành cũng chỉ là một chú thiếu niên đang học khỏang các lớp Đệ Tam, hay Đệ ngũ, hoặc lớp Nhất bậc Tiểu học thì làm sao Liên Thành biết nhân vật kỳ bí ấy là Phan Quang Đông để Liên Thành ngưỡng mộ!. Như vậy đoạn văn chuyên chở tin tức nầy không do Liên Thành viết và Liên Thành cũng không cho biết xuất xứ. Điều nầy có nghĩa là Liên Thành nghe lóm từ đâu đó rồi khoe khoan để đánh lừa độc giả rằng Liên Thành biết rất nhiều, và lén đưa độc giả ý niệm: “Liên Thành là nhà tình báo đại tài; hoặc của một người khác viết và bắt (hay cho) Liên Thành đứng tên. Dù trường hợp nào cũng đều nói lên rằng Liên Thành là người không lương thiện.
    2/ Chỉ là Tu sĩ Phật Giáo, không quyền lực, không tiền của để ban phát hay thuê mướn. Giáo lý đạo Phật lại không có điều khoản nào để tu sĩ dựa vào đó thực hiện một cuộc ngã giá trao đổi giữa sự hy sinh hôm nay để đánh đổi vị trí huy hoàng trên cõi nào đó sau khi tắc thở.
     Những tu sĩ Phật giáo tạo uy tín bằng sự hành hoạt đức độ và người dân chiêm nghiệm chứng thực bằng thời gian liên tục và dai dẳng. Nhưng đức độ chỉ làm người dân bày tỏ sự kính trọng; lòng ái quốc chân thành mới chính là lý do mà các vị tu sĩ Phật Giáo vận động và huy động được sức mạnh quần chúng để bảo vệ tổ quốc, phát triển xã hội về mặt nhân văn như Liên Thành đã cho biết là hàng chục ngàn đồng bào xuống đường ủng hộ. Lịch sử Việt Nam cũng thường dành những trang trân trọng ghi công những vị Thiền Sư Phật Giáo góp phần giữ nước và dựng nước.
     Vậy,” hằng chục ngàn Phật Giáo đồ ồ ạt xuống đường biểu tình hoan hô, đả dảo, truy bắt Cần Lao, truy bắt Công An, Mật Vụ Nhu Diệm, Cấp chỉ huy các đơn vị tình báo của Ty Công an Thừa Thiên Huế và Đoàn Đặc Nhiệm công tác miền Trung,…” (Trang 7 BĐMT). Tất cả chỉ là hậu quả, là hệ lụy nguyên nhân từ những hành động dã man tàn bạo và khát máu của tập đoàn Cần Lao mà người dân thời ấy gọi là “Mật Vụ Diệm Nhu” . Nếu uất hận không ngút ngàn, nếu không bởi máu lệ oán thù thì không ai có thể huy động hàng chục ngàn người bỏ cả công ăn việc làm, bỏ quên cuộc sống tư riêng của gia đình, của chính mình để lao vào trận phục hận trả thù như Liên Thành miêu tả!
   3/ Nếu bài nầy do Liên Thành viết hay do người nào viết thì lúc đó Liên Thành hay (những) người viết  (từ nay xin tạm gọi là tập đoàn Cần Lao)  ở đâu, làm gì và nghĩ gì? Tại sao  Liên Thành hay tập  đoàn Cần Lao không có được bất cứ hình thái phản kháng  chống lại cuộc Cách Mạng lật đổ Tổng Thống Ngô đình Diệm dù chỉ là cuộc biểu tình hay trên sách báo, hội luận; ngay cả truyền đơn cũng không có? Vậy cái chí khí, cái liêm sĩ ở đâu? Làm sao để không thể kết luận những kẻ như Liên Thành hay tập đoàn Cần Lao là những kẻ không hèn hạ! Liên Thành hay tập đoàn Cần Lao đã xác nhận Tổng Thống Ngô đình Diệm bị lật đổ bởi một cuộc Cách Mạng  Viết hoa - như đã trích phần trên), cuộc Cách Mang ấy lại được sự nhiệt liệt tán thành ủng hộ bởi hàng chục ngàn người hổ trợ bằng cách vây bắt những tên côn đồ khát máu thì đó là do gia đình ông Ngô đình Diệm và bọn bộ hạ gây ra nguyên nhân và phải nhận lấy hậu quả. Đó là lý đương nhiên, là hệ quả tất yếu, là những gì mà Tiền Nhân Việt Nam đã từng chỉ dạy:”Gieo Nhân – Gặt Quả”. Tàn bạo và khát máu với dân thì phải chịu sự trả thù trừng phạt từ dân, từ nạn nhân của hệ thống cai trị bất nhân tàn ác và khát máu. Chỉ riêng từ ngữ CÁCH MẠNG và hàng chục ngàn người ồ ạt xuống đường như Liên Thành hay tập đoàn Cần Lao  mô tả và tường thuật cũng đủ để minh chứng việc lật đổ chế đố gia đình trị Ngô đình Diệm và truy diệt Cần Lao là nhu cầu về cả đạo lý lẫn thực tế, là cần phải có để Dân tộc được tồn sinh, để đạo lý được tri hành.
B/ Cuộc gặp mặt giữa nhân vật thượng đẳng của Liên Thành và Tướng Đỗ Cao Trí:
                           
                              (Trung Tướng Đỗ Cao Trí  tại mặt trận)

 Để ngụy tạo phẩm chất cho Phan quang Đông, Liên Thành tiếp tục tường thuật buổi gặp mặt giữa Phan quang Đông như là một  anh hùng dù  sa cơ thất thế, vẫn là đang đại diện cho chính nghĩa Quốc Gia với Tướng Đỗ cao Trí đang đại diện cho kẻ chiến thắng mà theo Liên Thành đó là Phật giáo,đó là cộng sản :”Ngay khi tiếng súng đảo chánh 1-11-1963 vừa dứt tại Huế, theo lệnh Hà Nội, mục tiêu đầu tiên của Hoàng kim Loan là đánh tan tành, đánh vỡ ra từng mảnh vụn các cơ quan Tình Báo Quốc Gia…”(trang 4 – BĐMT).Thi hành chỉ thị ấy, Tướng Đỗ cao Trí đã phái  một Sĩ Quan và một đơn vị nhỏ đến căn nhà màu hông để vây bắt. Liên Thành và tập đoàn Cần Lao bôi vẻ để biến Phan quang Đông từ một tên sát thủ bất lương tàn ác thành nh6an vật có phẩm chất rất anh hùng, rất xứng đáng là viên chức Tình Báo cao cấp đầy đủ trách nhiệm với thuộc cấp. Qua lời tường thuật rất chi tiết sau đây của Liên Thành và tập đoàn Cần Lao:”Tướng Đỗ Cao Trí là Tư Lịnh lực luợng đảo chánh tại Huế, đã phái một đơn vị nhỏ cùng với một Sĩ quan bao vây căn nhà màu hồng bắt ông Phan Quang Đông. Ông Phan Quang Đông nói với viên sĩ quan:
      - Tôi phải gặp Tướng Đỗ Cao Trí trước khi nạp mình cho các anh. Yêu cầu của ông Đông đã được Tướng Đỗ Cao Trí chấp thuận ( BĐMT-trang 7)
    Bình thường thì từ chữ Yêu cầu…là  phải  xuống hàng vì đã hết phần đối thoại, nhưng không biết tại sao ông Liên Thành vẫn cho mạch văn tiếp tục, có thể do nhà xuất bản sơ ý hay tại lối viết văn của Liên Thành là thế!.
     Buổi gặp mặt chỉ có 3 người: Tướng Đỗ Cao Trí, ông  Phan Quang Đông và chánh văn Phòng của ông Đông. Ông Đông nói rất ngắn, gọn với Tướng Đỗ Cao Trí:
    - Chúng tôi họat động ngoài Bắc. Không dính dấp gì đến chuyện trong Nam. Một số nhân viên của tôi hiện đang họat động ngòai đó Thiếu Tướng lo cho họ.
 Không một hồ sơ, tài liệu, danh sách nhân viên và máy móc truyền tin liên lạc ngòai Bắc được ông Phan Quang Đông chuyển giao lại cho Tướng Trí. Tất cả đã biến mất nhiều giờ, trước khi căn nhà màu hồng nầy bị bao vây” (trang 8 – BĐMT)

Nhận định riêng của người viết:

   1/ Cuộc Cách Mạng ngày 1 tháng 11 năm 1963 chỉ có một sự kháng cự duy nhất giữa Quân Đội Đảo Chánh và Lực Lựơng Đặc Biệt Bảo Vệ Phủ Tổng Thống do Trung tá Lê Quang Tung làm Chỉ Huy Trưởng. Nhưng cuộc kháng cự ấy rất ngắn, sự thiệt hại không đáng kể, còn toàn quốc dều vui mừng. Riêng tại Huế thì gần như tòan bộ lòng dân đều chán ngán chế độ Cần Lao mật vụ của ông Ngô đình Diệm thì làm gì có kháng cự mà Liên Thành và tập đoàn Cần Lao nói rằng ngay sau khi tiếng súng đảo chánh vừa dứt! Nếu có phần thưởng dành cho người nói dốc thì đề nghị nên trao giải nầy cho Liên Thành và tập đoàn Cần Lao.
   2/Thời gian có cuộc đảo chánh, Liên Thành có thể đã là Thiếu úy Bảo An Đòan hay Địa phuơng quân (nếu Liên Thành sinh 1940 thì 23 tuồi, hay 1943 thì 20 tuổi và 16 tuởi, nếu sinh 1946 là 16 tuởi, còn đi học ), Liên Thành cũng không cho biết lúc ấy Liên Thành làm gì, hơn nữa trong cuộc gặp mặt với Tướng Đỗ cao Trí thì chỉ có 3 người là Tướng Trí, ông Đông và chánh văn phòng của ông Đông  vậy làm sao  Liên Thành biết và tường thuật một cách tường tận và tỉ mỉ như thế?
    3/ Cũng theo sự tường thuật của Liên Thành thì Phan quang Đông đã hủy bỏ các hồ sơ tài liệu, cũng đã phá hủy các máy móc truyền tin, thế mà Phan quang Đông yêu cầu Tướng Trí lo cho họ thì lo cái gì và lấy gì mà lo và lo cho ai? Không lẻ nhà tình báo thượng đẳng của Liên Thành ngớ ngẩn đến như thế?
    4/ Trong suốt cuộc chiến chống lại cộng sản xâm lăng. Phía Bắc Việt nhận viện trợ từ của khối cộng sản đứng đầu là Liên bang xô viết và Tàu cộng. Còn miền Nam thì của thế giới Tự Do mà điển hình là Mỹ. Công tác tình báo hoạt động ra Bắc đều do Mỹ tài trợ về mọi mặt: Từ tuyển chọn nhân viên, huấn luyện, phuơng tiện vận chuyển, định vị kế hoạch, máy móc dụng cụ, lương bổng…nhất nhất đều không thể không có sự giúp đỡ hay nói thẳng ra là sự điều hành, điều khiển của người Mỹ thì Chính Quyền Quốc Gia chúng ta không thể đơn phương được. Vậy khi Phan quang Đông thực hiện việc phá hủy ấy mà theo Liên Thành và tập đoàn Cần Lao “phách tấu” là để bảo mật, bảo vệ sinh mạng cho nhân viên và những điệp viên xâm nhập thì có bảo mật được không! Sao cả hai nhà tình báo thượng đẳng và đại tài lại không nghĩ ra chuyện dễ hiểu như thế? Lại thêm một lần nữa bắt tại trận Liên Thành và tập đoàn Cần lao nói phách tấu. Liên Thành là kẻ có bộ óc phát triển  dưới mức bình thường.
C./ Đấng thượng đẳng thần của Liên Thành
    Sau đây là nhận định về hành động của Phan quang Đông dưới con mắt của nhà “tình báo Liên Thành”: ”Đây là quyết định và hành động của ông Đông để bảo mật và bảo vệ sinh mạng cho nhân viên, những điệp viên đang họat động và đang kẹt lại tại miền Bắc.(trang 8 – BĐMT)
    Trước khi tạm chấm dứt câu chuyện về Phan quang Đông và biến cố Quỳnh Lưu, Liên Thành bèn làm lễ truy điệu ngưỡng vọng Phan quang Đông: ”Nhưng đau đớn và nghiệt ngã là địch đã dùng những người Quốc Gia, dùng súng của những người cùng chiến tuyến chống cộng sản, bắn những phát đạn vào thân thể ông, nỗi oan khiên ngút tận trời xanh, chỉ có ông biết,chiến hữu của ông biết,Trời biết,Đất biết, hồn thiêng sông núi biết và …Tổ Quốc Ghi Công (trang 10-BĐMT).
  Sợ rằng tuyên dương như thế chưa đủ, Liên Thành tấn công những viên chức Việt Nam Cộng Hòa (VNCH):” Những người ngồi xử ông Phan Quang Đông, từ Chánh Án, Chánh Thẩm Công Tố là những Sĩ Quan , là những viên chức cao cấp hành chánh của Chính phủ miền Nam Việt nam. “Giờ họ còn hay đã mất, tại quê nhà hay hải ngoại, có ai hối hận không, khi đem ông Phan Quang Đông một cấp chỉ huy thượng đẳng của cơ quan Điệp Báo miền Nam hoạt động ngòai Bắc ra xử bắn” (trang 10 – BĐMT)
  Và sau đó, Liên Thành không tiếc lời mạt sát và nguyền rủa những viên chức cao cấp Việt Nam Cộng Hòa :”Các ông đã quà hèn hạ. sợ mất lon, mất chức, bán rẻ lòng lương thiện tối thiểu, cúi đầu theo lệnh những tên Việt cộng nằm vùng trong Phật giáo như Đôn Hậu, Trí Quang và sau lưng là Hòang Kim Loan, là cục 2 Quân báo và Nha Liên Lạc, tức cục Tình Báo Chiến Lược của Hà Nội. Rồi đây, lịch sử sẽ phê phán, định tội các ông. (trang 10 và 11 – BĐMT – tô đậm theo đúng sách đã dẫn).
Nhận định riêng của người viết :

   Trong sách BĐMT ông Liên Thành không cho biết cái cảm giác kính trọng ông Phan qung Đông và khinh ghét mạt sát những viên chức Sĩ quan VNCH có từ lúc nào. Vì ông Liên Thành không nói nên người đọc có thể suy luận là có hai trường hợp xảy ra:
 a/ Đã xảy ra lúc ông Liên Thành đương tại chức thì tại trang 49 ông Liên Thành xưng em một cách ngon lành với Trung Tá tỉnh trưởng Phan văn Khoa và đến trang 55 sách BĐMT Đại Tá Nguyễn ngọc Loan gọi nhà tình báo đại tài Liên Thành bằng mầy. Nếu đúng như nhận định của ông Liên Thành thì cuộc cách mạng đảo chánh ông Ngô đình Diệm đều là của Phật Giáo, hay bị điều khiển bởi Phật Giáo mà Phật giáo cũng là cộng sản hoặc tay sai thi hành mệnh lệnh cộng sản. Như thế có nghĩa rằng cộng sản  đã thao túng được chánh quyền miền Nam thì phía Quốc gia làm sao đào tạo được những người tài giỏi những nhà yêu nước  để ông Liên Thành xưng em ngọt lịm hay bị (đuợc!) gọi là mầy và làm sao đào tạo được những Tướng Sĩ anh dũng phơi thây trên chiến địa, những vị thức giả dám chống lại các nhà lãnh đạo mà họ cho là bất xứng và ngày 30 tháng 4 năm 1975 có những Anh Hùng Vị Quốc vong thân cho chúng ta hôm nay ngẩn mặt với thế giới, kiêu hãnh nhìn kẻ thù; cùng với thế hệ nối tiếp tiến hành cuộc chiến giành lại quê hương.
     Nếu ông Liên Thành có tấm lòng ngưỡng mộ ông Phan quang Đông như thế, mà trong thời gian ngót gần 10 năm kể cả lúc có quyền thế trong tay ông Liên Thành đã có hành động gì để phục hồi danh dự cho vị anh hùng tài ba của chính ông Liên Thành không? Hay ông Liên Thành cũng hèn mạt ngậm miệng ăn tiền. Vậy, tôi xin sửa đổi lại câu ông mạt sát người khác để tặng lại ông :”Ông Liên Thành, ông đã quá hèn hạ, sợ mất lon, mất chức. bán rẻ lòng lương thiện tối thiểu cúi đầu theo lệnh những tên mà  theo ông là bất xứng, không dám minh oan phục hồi danh dự cho người mà ông vô cùng ngưỡng mộ, luơng tâm ông chắc không bằng lương tiền, ôi thôi tư cách của tên nói dốc”
   b/ Liên Thành và tập đoàn Cần Lao chỉ vì nổ lực binh vực cho chủ nhân của họ là chế độ gia đình trị và cần Lao ác ôn mà thóa mạ lên những viên chức cao cấp VNCH khi viết rằng những viên chức cao cấp VNCH thi hành chỉ thị cộng sản để bắn Phan quang Đông.
   c/ Có điều lạ là chính Liên Thành khép nép xưng “EM”trước họ và bị họ gọi là “MẦY”, là những người bổ nhiệm, ra lịnh cho Liên Thành lại còn dưới quyền những vị lãnh đạo cuộc Cách Mạng. Vậy Liêm sĩ của Liên Thành đã bị đánh đổi bởi miếng ăn hay Liên Thành xa lạ chưa bao giờ biết đến chữ Liêm Sĩ. Bởi vậy, thật đáng ngạc nhiên khi nghe Liên Thành nói đến Trời, Đất, Hồn Thiêng Sông Núi…Không lẻ Liên Thành đã trở thành con vẹt của tập đoàn Cần Lao?
   d/ Những điều Liên Thành viết về Phan quang Đông là Liên Thành mới biết đây ( từ sau Cách Mạng 1.11.1963 đến tháng 5.2008  thời điểm tập BĐMT xuất hiện, nghĩa lần gần 45 năm , Liên Thành chưa từng có bất cứ hành vi nào liên quang đến Phan quang Đông, về cuốc Cách Mạng lật đổ chế độ gia đình trị và độc tài cần Lao Ngô đình Diệm,) thì làm sao ông biết và lấy gì để chứng minh rằng điều ông nghe là chân lý. Những sách vở tài liệu nào ông đã đọc và ông đã kiểm chứng chính xác chưa? (không thấy ông trích dẫn, có nghĩa rằng ông là chứng nhân về những điều ông viết ra và ông phải chịu trách nhiệm). Khi chưa có những tranh luận, chưa trưng ra được những tài liệu có giá trị thuyết phục mà ông vội vả lên án, ông dùng những danh từ vô lễ thóa mạ cả lịch sử thì ông chỉ là một kẻ tay sai, nói và chuởi theo mệnh lệnh người khác.
     Từ những nhận định trên, chúng ta có thể kết luận rằng, Liên Thành hòan tòan không có tư cách làm người chân chính. Khi đã là người không chân chính thì Liên Thành lấy tư cách gì mạt sát thậm tệ người khác? . Đây chính là hình ảnh và hậu quả của một người đứng dưới gió khạc nhổ người trên gió. Liên Thành hãy nhớ câu người xưa đã dạy:”Hàm huyết phún nhân, tiên ô ngã khẩu”.
   Một người có trong tay quyền hành sinh sát người dân và có ba thứ  vũ khí mạnh nhất trong thời chiến là: Tình báo, Tư pháp và Binh lực mà hèn hạ và hồ đồ như thế thì làm sao người dân dưới quyền bị trị không bị thảm họa.  Mậu thân 1968 chính là sự chứng thực tài năng Liên Thành . Nên nhớ cả tòan quôc chỉ có Huế là thảm khốc nhất , lâu nhất; thế mà cho đến hôm nay Liên Thành chưa hề nhận lỗi,  tạ tội với đồng bào Huế. Chúng tôi sẽ truy tố Liên Thành về tội phạm nầy.


Bài 2 : Lý do và diễn tiến biến cố Quỳnh Lưu  
                                      

  Trước khi tìm hiểu xem tại sao trong tập BĐMT Liên Thành lại cố ý đưa vụ biến cố Quỳnh Lưu ra đầu tập sách. Chúng ta hãy lần tìm các dấu vết của vụ Quỳnh Lưu. Các dấu vết ấy xin lần lược trình bày qua các tài liệu chúng tôi có được như sau:
         Cuộc nổi dậy của đồng bào Quỳnh Lưu có hai tài liệu gồm của Linh Mục (LM) Phan Phát Huồn trong tác phẩm Việt Nam Giáo Sử (VNGS) Quyển II do Cứu-Thế Tùng Thư xuất bản năm 1962, và một bài viết của tác giả Cẫm Ninh phát hành trên mạng “Toàn Dân Lên Tiếng” ngày 4 tháng 8 năm 2009.
Nội dung hai bài nầy khá giống nhau . Do dó, phần tác giả Cẫm Ninh chúng tôi chỉ trích đoạn để bổ túc cho phần của Linh Mục Phan Phát Huồn.
A/ Linh Mục Phan Phát Huồn: tại phần tiểu đề:”Quỳnh Lưu đẫm máu (1956)” từ trang 74 đến trang 78, chúng tôi trích lại nguyên văn. Theo phần chú thích của tác giả LM thì bài viết nầy được phỏng theo các tài liệu: Thanh-hải: Đ.M.H.C.G (có thể là Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp) và H B (tên một vị cung cấp tài liệu cho L.M). Quỳnh-Lưu khởi nghĩa của nhà xuất bản Thanh-Hương-Sơn.
Sở dĩ chúng tôi chọn bài viết của LM Phan Phát Huồn làm bài chính vì LM nguyên là Trung Tá Phó Giám Đốc Nha Tuyên Úy Công Giáo Quân Lực VNCH, nguyên cựu tù nhân chính Trị Cộng Sản, tác giả bộ sách VNGS và nhiều bộ sách về Thần Học. Hiện LM đang là Tu sĩ thuộc Giòng Chúa Cứu Thế. Vì những giá trị về nhân thân, nên theo nhận định riêng của chúng tôi thì tiếng nói của LM có trọng lượng và vì vậy Liên Thành không thể viện những chuyện vu vơ để phán bác như Liên Thành đã từng thách thức tranh luận về quyển BĐMT nhưng khi ông Bảo Quốc Kiếm chấp nhận lời thách thức thì Liên Thành dựng chuyện ông Bảo Quốc Kiếm là Trung Sĩ Cảnh sát, là thu thuế chợ, là bài bạc và bị sa thải, và cuối cùng Liên Thành thực hiện kế thứ 36 “Đào vi thượng sách” là vừa chạy trốn vừa la làng rằng là không muốn nói chuyện với “hạ cấp” (chữ Liên Thành dùng – tôi không muốn bình luận thêm về tư cách Liên Thành vì chữ “hạ cấp” Liên Thành tưởng dùng để mạt sát người khác mà thật ra là Liên Thành tự mạt sát mình!). Theo ông Bảo Quốc Kiếm tác giả tập sách “Huế ơi oan nghiệt” phản bác quyển BĐMT thì Bảo quốc Kiếm là bút hiệu, và tên thật là Trương Khôi, ông nguyên  thuộc Lực Luợng Xây Dựng Nông Thôn phục vụ tại Huế.
Sau đây là nguyên văn của LM. Phan Phát Huồn nói về vụ Quỳnh Lưu dưới tiêu đề: “Quỳnh Lưu đẫm máu (1956) “ trong sách VNGS từ trang 74 đến trang 78:
Lúc cái quái thai ”Nghị quyết sửa sai”ra đời, toàn thể nhân dân tỉnh Ngệ An đưa các thành phần giai cấp trong xã hội, các thanh thiếu niên thuộc các xã Quang trung, Tân Nho, Diễn Tân, Vạn Kim, Diễn Đức, Diễn Đông, Diễn Nguyên, Minh Châu và các xã Đức Vinh, Hồng Thăng, Đại Gia, Yên Trung mở đại hội để tháo mở hết các phẫn nộ, tuôn hết những uất ức mà 10 năm chôn chặt trong tiềm thức trong đáy lòng họ. Trong cuộc đại hội ấy, nhân dân các xã nói trên mời cả Việt Cộng thuộc cấp tỉnh và huyện đến tham dự để chứng kiến cái tinh thần đấu tranh đòi tự do của nhân dân.
Tại đại hội, nhân dân dũng cảm đứng lên công kích hành động phản dân phá đạo của ngụy quyền Hồ chí Minh và họ đã đồng thanh lập kiến nghị sau đây:
a-/ Yêu cầu trả lại cho chúng tôi những vị linh mục  chính sở và tất cả những vị giáo sĩ bị bắt bớ giam cầm.
b/- Yêu cầu trả lại cho chúng tôi xác các vị linh mục đã bị hành quyết và của những vị đã bị thủ thiêu.
c./- Yêu cầu trả lại những tài sản của địa phận, của thánh đường, của Đức Mẹ đã bị chính quyền tịch thu xung công.
d./ Yêu cầu đền bồi thanh danh của các giáo sĩ đã bị nhục mạ và danh dự của các giáo hữu đã bị vu khống.
Toàn thể nhân dân ở đại-hội hòan tòan đồng ý thông qua và đồng ký, riêng các ủy-viên Việt-Cộng thì lầm lì căm tức trước những lời kết án cương quyết hùng hồn đanh thép của toàn thể đại hội. Ban đầu chúng nhất định không ký, nhưng với áp-lực của hàng nghìn tinh thần cương-quyết làm cho chúng đành phải ký vào quyết-nghị.
Họ viết tờ báo cáo đầy đủ chi tiết đánh máy ra làm bốn bản; một bản để trình Tòa-Thánh, nhờ sự trung-gian của Đức Khâm-sứ Dooley, một trao cho Ủy Hội Quốc-Tế kiểm-soát đình-chiến, một gởi cho chủ-tịch Hồ chính Minh (có thể là chí chứ không phải là chính - nhưng trong trang Đính chính không thấy ghi!). và một gởi cho chính-quyền quôc-gia miền Nam. Người ta đã tìm đủ mọi cách để chận đứng báo-cáo ấy không cho lọt vào tay Ủy-hội Quốc-Tế kiểm-sóat đình-chiến.
Dân chúng không bị lừa đảo nữa, họ áp dụng phương pháp lấy gậy ông đập lưng ông, nhân dân quyết tâm vịn vào quyết nghị Sửa sai của đại hội thứ 10 trung ương đảng Cộng sản để đòi lại chồng con đã bị giết, đòi lại tài sản đã bị tịch thu, đòi lại những cái gì đã bị Việt cộng cướp giật trong 10 năm kháng chiến và vịn vào mục đích đi lại trong bản nghị quyết để đòi Việt cộng phải cho họ di cư vào Nam. Khổ quá rồi, trong 10 năm qua, bây giờ người ta không muốn khổ nữa, người ta muốn được áo ấm cơm no, nhưng Việt cộng chỉ ban hành danh từ sửa sai chứ  chẳng chịu san bớt phần ăn cho các dạ dày trống rỗng, do đó uất-hận càng tràn ngập nông-thôn. Người ta quyết-tâm tìm mọi lối thoát khỏi thiên-đường Cộng-sản. Nhân dân đâu đấy đã viết đơn sẳn-sàng chỉ chờ dịp là trao cho Ủy-hội Quốc-Tế, để đòi Ủy hội phải can thiệp để cho họ bỏ làng. Bỏ nước, bỏ mồ mã ông bà cha mẹ, khăn gói ra đi lập lại cuộc đời bên kia bờ bến Hải.
Giữa lúa đó, được biết chiều ngày 9.11.1956, Ủy hội Quốc-Tế sẽ đi qua Cầu- Giát, để về Thủ-đô Hà Nội, hằng ngàn người đã kéo ra đường số 1 chờ đợi. Đồng- bào góp đơn lại giao cho 6 thanh-niên đứng ra đại diện họ. Sợ lỡ dịp tranh đấu, mấy ngàn đồng bào đã nằm xuống chắn ngang, xe vừa hãm bánh thì đồng bào đứng ngay dậy, 6 thanh niên đại diện trao cho Ủy-hội mấy vạn bức thư chất đầy 3 bao bố. Sĩ-quan Ấn-độ nói với đồng-bào: Ông chỉ thuộc về tiểu ban lưu-động không có thẩm-quyền  giải-quyết việc nầy, nhưng ông sẽ đem về Hà-Nội cho Trung-ương ủy-hội quyết-định, thứ bảy sẽ trả lời.
Sau khi đó, hàng vạn tấm lòng được cởi mở, họ sung sướng sắp ra khỏi thiên- đàng của Cộng-sản. Họ tin-tưởng ở ủy-hội.
Trên dưới một vạn dân lành đã tập-trung ở làng Cẩm-trường mở cuộc hội- nghị để chờ ngày thứ bảy. Mấy ngày đêm họ bàn-tán xôn-xao. Họ liên-hoan chiến- thắng, họ ước-mơ một trời Nam lộng gió, một trời Nam ngập tràn ánh-sáng và tự- do, nơi đó họ sẽ xây-đắp cuộc đời của họ đã héo tàn bên kia bờ vĩ-tuyến…
Giữa lúc hàng vạn người đang say-sưa với ngày mai huy-hoàng thì một tin làm tắt hẳn ánh-sáng hi-vọng đang cháy rừng rực trong tâm-hồn họ: Quân-đội Việt-cộng hợp lực với Công-an mang súng về giải tán họ, nhất định không cho họ di-cư vào Nam, cuộc ấu-đả bắt đầu. (chữ đậm và gạch bên dưới là của chúng tôi để quý độc giả lưu ý)
Hàng vạn đồng-bào tay không đánh nhau với hai đại-đội vũ-trang Việt-cộng, súngnổ, lu đạn tung rền đất, Cộng-sản quyết-tâm tiêu-diệt đồng-bào, đồng-bào lớp nầy ngã gục, lớp kia tràn lên xông vào tầm súng của địch. Trong khi đồng-bào đang chiến-đấu thì các bà mẹ đánh trống chí tử để kêu gào những làng chung quanh hãy đem quân sang tiếp-viện, nhân-dân các làng tiếp-viện bủa vây, thành một vòng khép chặt Cọng-sản lại làm cho chúng tiến thóai lưỡng nan. Trước tình thế nguy-ngập ấy, cộng quân một mặt liên-lạc cầu viện-binh, một mặt kêu cứu với Đức Giám-mục Trần-hữu-Đức, nhờ ngài giải-quyết cho, nhưng ngài đã trả lời:
- Tôi không biết về vấn đề chính-trị, vì tôi là một nhà tu hành.
Nhân-dân các nơi góp tiền, góp gạo gởi về giúp nghĩa quân. Sáng ngày 13.11.1956, nghĩa quân toàn tỉnh tập họp tại Quỳnh-Lưu, tổ-chức cuộc biểu tình thị uy lực- lượng  và để đả dảo hành động dã man của cộng-sản, họ hô lên các khẩu hiệu:
Luơng giáo đoàn-kết chặt chẽ sau lưng nghĩa quân.
Lương giáo quyết tâm chống cộng-sản khát máu.
Tinh thần Quỳnh-Lưu bất diệt
Cuộc tuần hành kéo đến trước cửa ty Công-an Nghệ-an, nhưng Công-an Việt- cộng đã cao bay xa chạy từ bao giờ rồi, các nghĩa quân thi nhau nhảy lên nóc nhà ty Công-an, xé tan cờ đỏ sao vàng, đập vỡ những bức ảnh của bọn trùm đỏ. Xong cuộc biểu dương lực-lượng , họ lại kéo nhau về Cẩm-trường để chuẫn- bị cuộc đấu tranh với Việt-cộng.
Đêm 13.11.1956 đã có 3.000 thanh niên từ các làng Do-Xuyên, Ba Làng, và Nông cống thuộc tỉnh Thanh-hóa bí mật kéo vào, mang theo nhiều tiền và gạo để cùng nghĩa-quân trường-kỳ kháng-chiến, Trong những đêm liên hoan, người ta đã nghe vọng lên những câu hát của các cô thôn nữ trong khắp các nẻo đường Quỳnh lưu:
                               “ Anh đi giết giặc lập công,
                                 Con thơ em gởi mẹ bồng,
                                  Để theo anh ra tiền tuyến,
                                 Tiêu diệt đảng cờ Hồng,
                                 Ngày mai giải-phóng,
                                 Tha hồ ta bế ta bồng con ta.        
          Chính lúc nghĩa-quân chuẩn-bị, Việt-cộng đem quân bao vây Quỳnh-lưu. Phụ lão đem con đi tản cư, ban chỉ-đạo nghĩa-quân về hầm nghiên-cứu trận địa và chỉ-huy tác-chiến; thanh niên, thanh nữ, thiếu nhi mang lựu đạn, giáo mác, gậy gộc ra bảo vệ làng. Nghe tin 20.000 nhân dân ở Thanh-hóa Nghệ- an kéo đến cứu viện nghĩa quân Quỳnh-lưu, ngụy quyền Việt-cộng thấy nguy, truyền cho tướng Văn- tiến-Dũng huy động các lực lượng quân sự ở Thanh-Hóa, Phủ- Qùy và Đồn- Hới để tiêu diệt nghĩa quân Quỳnh-Lưu.
         Trước sức hùng hổ đó, nông dân vẫn quyết tâm tử-chiến để bảo-vệ căn-cứ. Lịnh  của ban chỉ-đạo nghĩa-quân được truyền vang như sấm:”Hãy chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để giải phóng dân tộc.
         Nhưng vì vũ-khí quá thô-sơ, nghĩa-quân phải rút vào rừng sâu. Lúc cuộc đánh kết liễu Việt-cộng xông vào các làng Thanh-Dạ, Song-ngọc, Cẩm-trường bắt tất cả già trẻ lớn bé, đàn bà con nít giải đi, Nhà cầm quyền tra-khảo để biết đích danh những người cầm đầu nhưng vô hiệu quả, mọi người dầu (đều) vỗ ngực tự xưng:”Tôi lãnh-đạo cách-mạng” ngay đến các em bé chín, mười tuổi mà cũng dõng dạc xưng :”chính tôi đứng lãnh-đạo công-cuộc cách-mạng “ Bối rối, ngụy- quyền phải trả tự-do cho nhân-dân nhưng Hồ-chí-Minh đâu có chịu thua, ông ra lịnh cho cán-bộ vế bắt Linh-mục xứ Cẫm-trường và Song-ngọc áp giải lên Hà-nội, Linh-mục Hậu và Linh-mục Đôn cực lực phản-đối:”Chúng tôi là nhà tu hành, chúng tôi không biết gì đến việc nhân-dân”.Nhưng Việt-cộng đâu có thèm nghe. Sau cùng trước họng súng đen ngòm, trước lưỡi lê tàn bạo, Linh-mục Hậu và Linh- mục Đôn phải để cho cán-bộ kéo sườn-sượt  lên xe molotova bít kín chở về Hà- nội. Chúng bắt hai Linh-mục bước lên đài vô tuyến truyền thanh đổ lổi trên đầu nhân dân tất cả. Hai Linh mục không bằng lòng, Việt cộng đe dọa Linh mục  Hậu, Linh mục Đôn không chịu nói, Việt cộng đổ lổi cho hai Linh-mục đứng lãnh-đạo cuộc khởi-nghĩa của nông-dân. Chúng tìm đủ mọi cách để cưỡng ép các Linh-mục phải nói theo chúng. Nghĩ đến chuyện Linh-mục Tấn bị thủ- tiêu ở Phủ-quỳ, hai Linh-mục ghê rợn đành phải táng tận lương-tâm tuyên-bố ngược lại sự thật (ô hô, ô hô! -tư cách và danh dự của Linh Mục!) Linh- mục Hậu và Linh-mục Đôn vừa khóc vừa nói trong nghẹn ngào đứt quãng.

          B/Phần bổ túc của tác giả Cẫm Ninh Cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu, Nghệ An, 1956     
                          04 August 2009
Cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu, Nghệ An, 1956

Thời gian cũng đủ chứng minh CSVN không thể trả lời. Nhưng người dân VN có thể sẽ tự trả lời khi cao trào thèm khát cuộc sống tự do dân chủ tới hồi chín muồi. Tiếng trống bi hùng của đồng bào Quỳnh Lưu 60 năm về trước vẫn còn vọng về thúc giục người có lòng ái quốc, thương nòi trong chúng ta. Bài hát vang trong bầu trời Quỳnh Lưu như nhắn nhủ gọi người can trường đi tìm chân lý của cuộc sống : con người sinh ra phải được tự do (Cẩm Ninh)
         Năm 1956, cuộc nổi dậy của đồng bào huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, là 1 cuộc đấu tranh đẫm máu chống lại chính sách cai trị dã man của lãnh đạo CSVN, mà qua đó, chính sách Cải Cách Ruộng Ðất đã là nguyên nhân chính làm bùng nổ cơn phẩn nộ của người dân. Cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu bị đảng CSVN bưng bít tin tức rất kỹ vì tầm mức ảnh hưởng nguy hiểm của nó; trong khi cuộc đấu tranh của các văn nghệ sĩ trong biến cố Nhân Văn Giai Phẩm may mắn hơn, được loan tin vào miền Nam VN thời bấy giờ, với những tư liệu lịch sử rất có giá trị.
 

                              
                                             (Cộng sản bày trò đấu tố dã man)       
           Nhưng không vì thế mà cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu bị chôn vùi với nỗi oan khiên của những nạn nhân đã chết. Một số nhân chứng hiếm hoi đã kể lại, viết lại để các thế hệ tiếp nối hiểu được những gì xảy ra dưới chế độ XHCN. Tội ác của lãnh đạo CSVN không thể đếm băng số người dân đã chết. Tầm mức [mục đích] của tội ác đã đi ra khỏi Giới hạn suy nghĩ của lòai người.
Sau đó, ngày 10-11-1956, khoảng 10.000 nông dân đã mở đại hội lần thứ hai tại xã Cẩm Trường để bàn thảo về ngày thứ Bảy. Mọi người đều tỏ ra hân hoan khi biết sắp sửa từ bỏ địa ngục trần gian. Nhưng ngay lúc đó, CSVN đã điều động 2 đại đội chủ lực và 1 đại đội công an võ trang huyện Diễn Châu về xã Cẩm Trường để giải tán đại hội nông dân. Bạo động đã xảy ra. Tiếng súng và lựu đạn nổ vang trời. Mặc dù tay không nhưng khí thế quần chúng quá mạnh, những người phía sau đã tràn lên thay cho những người gục ngã phía trước.
            Cuối cùng, dân chúng đã bao vây đồn bộ đội, công an vào giữa. Ðêm hôm đó, CS đưa thêm 2 trung đoàn về bao vây 10.000 nông dân tại xã Cẩm Trường. Dưới cơn mưa phùn lất phất cuối đông, cảnh tượng bi hùng đã diễn ra ở 1 trận địa giữa 10.000 nông dân và 2 vòng trong ngoài đầy những công an và bộ đội. Tờ mờ sáng này 11-11-56, các bà mẹ đã đánh trống, mõ kêu gọi dân chúng quanh vùng đến tiếp cứu. Xã Diễn Châu như bị động đất. Rồi 30.000 nông dân kéo đến vây phía ngoài 2 trung đoàn chính quy của CS, trở thành 1 vòng bao vây thứ tư. Cuộc nổi dậy bộc phát quá lớn, quá mau, đã đi ra ngoài sự tiên liệu của cả 2 bên. Hồ Chí Minh rất căm hận biến cố này vì Nghệ An là quê quán của ông ta, nhưng Hồ Chí Minh chưa biết cách giải quyết thế nào để gỡ thể diện cho mình và đảng. CS cũng tìm cách liên lạc với Giám mục Trần Hữu Ðức nhờ ông giải quyết, nhưng ông đã trả lời : "Tôi không biết về vấn đề chính trị, vì tôi là nhà tu hành". Lúc bấy giờ, phía dân chúng đã có 1 số lượng vũ khí đáng kể, tịch thu được từ bộ đội. Chưa bao giờ 1 cuộc nổi dậy ở miền Bắc lại có đủ tất cả thành phần dân chúng, kể cả các đảng viên CS.
              Ðêm 11 rạng ngày 12-11-1956, một số nghĩa quân lén trở về Quỳnh Lưu để tổ chức biểu tình yểm trợ cho dân quân xã Diễn Châu. Ðêm hôm đó, 3000 thanh niên các xã Do Xuyên, Ba Làng và Nông Cống (tỉnh Thanh Hóa) đã kéo vào yểm trợ nghĩa quân. 4g sáng cùng ngày, một Ủy Ban Biểu Dương Lực Lượng Nông Dân Quỳnh Lưu và Ủy Ban Tiếp Tế Nghĩa Quân được thành lập. Phụ nữ, trẻ em đã mang gạo, thực phẩm đến xã Cẫm Trường , nơi cuộc đấu tranh đã bước vào ngày thứ 3……. (giống như bài viết của LM Phan Phát Huồn)………………………
          Cuộc biểu tình đã tuần hành tiến về Ty Công an Ngệ An, hô thật to những khẩu hiệu : "Lương giáo đoàn kết chặt chẽ sau lưng các nghĩa quân", "Lương giáo quyết tâm chống CS khát máu", "Tinh thần Quỳnh Lưu bất diệt"... Công an tỉnh lẩn trốn từ lâu trước khí thế này. Dân chúng thi nhau nhảy lên nóc Ty Công an, xé tan cờ đỏ sao vàng, đạp vỡ ảnh HCM và các lãnh tụ CS quốc tế.
          Trước tình hình này, Hồ Chí Minh ra lịnh cho Văn Tiến Dũng điều động Sư đoàn 304 từ Thanh Hóa, Phủ Quỳ và Ðồng Hới về bao vây nghĩa quân. Sư đoàn này quy tụ nhiều bộ đội miền Nam tập kết mà Hồ Chí Minh muốn xử dụng, thay vì dùng bộ đội sinh quán ở miền Trung hoặc miền Bắc, để có dịp trút tội cho binh đoàn miền Nam nóng tính này. Trận địa tại xã Cẩm Trường đã lên đến 5 vòng đai giữa dân quân và VC.
         Buổi chiều cùng ngày, nghe tin dân quân xã Cẩm Trường bị Sư đoàn 304 vây, gần hàng chục ngàn người đã tiến về xã Cẩm Trường để tiếp cứu. Vòng đai chiến trận đã tăng lên lớp thứ 6. Buổi tối ngày 13-11-1956, hơn 20.000 nông dân từ Thanh Hóa lại kéo vào tiếp viện, mang theo đầy đủ lương thực, tính kế trường kỳ đấu tranh.
         Ngày 14-11-1956, Văn Tiến Dũng huy động thêm Sư đoàn 312 vào trận địa quyết tiêu diệt nhân dân Quỳnh Lưu. Khi vòng đai thứ 7 thành hình, Hồ Chí Minh ra lịnh tiêu diệt cuộc nổi dậy có một không hai trong lịch sử đấu tranh chống VC. Trước bạo lực đó, nông dân vẫn cứ quyết tâm tử chiến để bảo vệ căn cứ. Lịnh của ban chỉ đạo nghĩa quân được truyền đi : Chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để giải phóng dân tộc.
          Nhưng vì vũ khí quá thô sơ, nghĩa quân phải rút vào rừng sâu. Sau khi trận chiến kết thúc, quân đội VC đã xông vào các làng Thanh Dạ, Song Ngọc, Cẩm Trường bắt tất cả già trẻ lớn bé giải đi.Họ tra khảo từng người để tìm ra ban chỉ đạo đấu tranh nhưng vô hiệu, vì bất cứ ai, kể cả các em thiếu nhi, đều tự xưng là người lãnh đạo cuộc cách mạng này. Không bắt được ai, VC đành thả bà con ra về, nhưng Hồ Chí Minh tính kế bắt đi Linh mục Hậu và Linh mục Ðôn của 2 xứ Cẩm Trường và Song Ngọc.Dù 2 vị này đã nói:"chúng tôi là nhà tu hành,chúng tôi không biết gì đến việc nhân dân", nhưng cũng bị công an kéo lê lên xe giải về Hà Nội.
CS bắt 2 vị linh mục phải lên đài phát thanh đổ lỗi cho giáo dân và nông dân, nhưng 2 vị không băng lòng. CS đe dọa nếu không tuyên bố như vậy thì sẽ giáng tội cho 2 vị là những người cầm đầu cuộc khởi nghĩa phản động này. Họ mang hình ảnh Linh mục Tấn bị thủ tiêu ở Phủ Quỳ ra dọa nạt. Cuối cùng , 2 vị phải tuyên bố ngược lại sự thật.
Dù nhà cầm quyền CS vẫn cố tình che giấu, xuyên tạc cuộc nổi dậy của nhân dân Quỳnh Lưu cho đến ngày hôm nay, dù họ đã dùng bạo lực đàn áp, giết chóc và đày ải hơn 6.000 nông dân trong biến cố Quỳnh Lưu, nhưng tinh thần yêu nước, can trường của người dân các tỉnh miền Trung nói chung, và ở tỉnh Nghệ An nói riêng, đã soi sáng cho các thế hệ sau con đường  chính nghĩa để đòi lại tự do.
Người CS rồi sẽ không thể nào dùng những bàn tay giết người che lấp nổi mặt trời. Những việc làm của họ rồi sẽ được phơi bày ra ánh sáng.
Ðòi cho bằng được tự do, công bằng, quyền căn bản của con người không thể xem là một cái tội. Dùng bạo lực để áp đặt một tội danh là gieo nỗi oan khuất cho cả một dân tộc. Nỗi oan khuất đó đã chồng chất đến trời xanh. Nói về những nỗi oan sống dưới chế độ CS thì không biết bao nhiêu mà kể Với những nỗi oan của những người đã chết, oan khiên đeo nặng những người còn sống, đảng CSVN đã giải quyết ra sao ? chỉ là sự im lặng.
           Ngoài hai tài liệu chính vì có nhiều chi tiết trong vụ Quỳnh Lưu, chúng tôi xin trích thêm một số bài viết ngắn khác nhằm trình bày rằng biến cố Quỳnh Lưu rất quan trọng trong giòng lịch sử đấu tranh của Dân Tộc chống lại bạo quyền cộng sản Việt Nam, nhưng biến cố nầy về phía Chính phủ VNCH hoàn toàn không can dự. Không đứng sau lưng, không tổ chức. Tác giả cẫm Ninh đã cho biết rằng cộng sản cố tình che dấu và xuyên tạc để tránh tội trước lịch sử.         
            C/ Hoàng ngọc Thành:Trong quyển “Công Và Tội Của Chủ Tịch Hồ Chí Minh Và Đảng Cộng Sản Việt Nam 1945 – 2006 Lịch Sử Hiện Đại Việt Nam của tác giả Hòang Ngọc Thành Ph.D. Giáo Sư Tiến Sĩ Sử Học Nguyên Trưởng Ban Sử Địa và Cao Học Sử Đại Học Sư Phạm Sài Gòn do nhà Xuất bản Nghĩa Phú tại San jose California xuất bản năm 2009, tại phần 5 của tiểu đề “Mức Chống Đối” trang 531 tác giả cho biết về vụ nổi dậy Quỳnh Lưu như sau:
            “Tiêu biểu cho sự chống đối của dân Miền Bắc là vụ nổi dậy tại Huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An quê hương của chủ tịch HCM. Vào đầu tháng 11-1956, khi mà thời hạn rút quân đi và tiếp thu các vùng  đã thực hiện xong trong 300 ngày theo hiệp định Geneva, tháng 7-1954. Vụ nầy được tiết lộ ra thế giới là nhờ sự hiện diện của một nhân viên Canada của Ủy Hội Quốc Tế kiễm Soát Đình Chiến. Nông dân đã bao quanh xe jeep của ông nầy và đưa các thỉnh nguyện xin di cư vào Nam theo hiệp định Geneva. Quân đội cộng sản can thiệp ngăn chận và bắt giữ những người đòi đưa thư thỉnh nguyện di cư vào Nam. Ngay đêm hôm ấy, nông dân nổi dậy trong xã ấy và các xã khác trong huyện Quỳnh Lưu. Từng đòan người kéo đi về tỉnh lỵ Vinh của tỉnh Nghệ An để đòi đi vào Nam. Tác giả Bernard Fall đã so sánh cuộc nổi dậy nầy giống như các cuộc biểu tình chống thực dân Pháp trong năm 1930.
              HCM và đảng cộng sản vội biệt phái đại đoàn 325 đến dẹp cuộc nổi dậy một cách tàn bạo và dã man. Cũng theo Bernard Fall, gần 6 nghìn nông dân bị giết hay bị bắt giữ, đưa đi đày tại các vùng núi non xa xôi. Chế độ giấu kỹ vụ nổi dậy nầy nếu không có sự hiện diện của thành viên Canada trong Ủy Ban Kiễm Soát Đình Chiến. Sự đàn áp man rợ vụ nổi dậy nầy không được dư luận Quốc tế quan tâm đúng mức vì tình hình thế giới có những sự kiện “giật gân” hơn như vụ quân Anh, Pháp nhảy dù xuống chiếm kênh Suez, Ai Cập, vụ quân đội xô viết dẹp công nhân nổi dậy ở Poznon, Ba Lan, và tràn vào chiếm Hungary để lật đổ chính phủ Nagy-Maleter.
          D/Bùi Anh Trinh:Tác giả Bùi Anh Trinh trong tác phẩm khảo luận:” Bối cảnh Lịch sử Chính Trị Việt Nam Cận Đại &Hiện Đại” phần Chuyện Nước Non Đau Lòng Tới Ngàn Năm tập Thượng do Làng Văn xuất bản tại Gia-nã-đại năm 2008 trang 822 phần có tiểu đề Vụ nổi dậy của dân chúng Nghệ An có ghi như sau:
Năm 1956, ngày 2-11, dân chúng tỉnh Nghệ An chận đường một xe của Ủy Hội Quốc Tế Kiểm sóat đình chiến đưa đơn xin can thiệp cho được di cư vào Nam. Một bộ đội dùng báng súng để giải tán dân làng nhưng bị dân chúng đánh trả và tước mất súng. Người bộ đội trở lại với một số đồng đội nhưng bị nông dân kéo ra đông hơn chống trả kịch liệt. Tới chiều nông dân kéo tới càng đông và chuẫn bị kéo nhau lên tỉnh biểu tình. Hà Nội đưa Đại doàn 325 đến dẹp loạn, số người bị giết và bị bắt lên đến 6.000nguời. Ủy hội Quốc tế kiểm sóat đình chiến đánh động việc nầy với dư luận Thế giới; nhưng lúc nầy trùng hợp với vụ quân đội Liên Xô đàn áp nhân dân Hungaria nổi dậy chống Cộng sản, và vụ Tổng thống Ai cập cho phong tỏa kênh đào Suez cho nên dư luận thế giới không mấy chú ý đến vụ nổi dậy tại hai huyện Quỳnh Lưu và Đo Lương thuộc tỉnh Nghệ An.
          E/ Hoàng Văn Chí: Ông Hoàng văn Chí ghi lại những tài liệu lịch sử cận đại trong tác phẩm viết bằng Anh ngữ:”From colonialism ta communism” và nhà văn Mạc Định dịch sang Việt ngữ dưới tên:“Từ Thực Dân Đến Cộng Sản” và được tác giả phụ chú thêm là: ”Một kinh nghiệm lịch sử của Việt Nam” sách được dịch sang các thứ tiếng Bồ Đào Nha, I-pha-Nho, tiếng pháp. Riêng bản tiếng Việt được nhà xuất bản Chân trời mới xuất bản năm 1964.     
Trong vụ biến động Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An năm 1956, ông Hòang văn Chí ghi nhận sự việc ấy như sau:
Vì thấy Đảng tuyên bố “sửa sai” mà không hề “sửa” những sai lầm căn bản, nên tại nhiều nơi, dân chúng thất vọng, trở nên công phẩn và nổi loạn thực sự. Có tin tại nhiều nơi (Bắc Ninh, Nam Định, v…v…) dân chúng nổi dậy, nhưng theo nguồn tin chính thức của Đảng thì “nhờ có sự khéo léo của quân đội nên đã tránh được nhiều vụ nghiêm trọng” .”Sự khéo léo của quân đội ” có nghĩa là trong mỗi nhá nông dân có ba người lính đến ở nhờ. Nhưng tháng 11 năm 1956, báo chí của Đảng cũng phải công nhận ở huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An có một cuộc võ trang khởi nghĩa. Cách đấy ít lâu, một số người trong nhóm khởi nghĩa thất bại trốn thoát  bằng thuyền vào Nam đã kể lại cho báo chí biết rõ chi tiết về vụ Quỳnh Lưu. Họ nói chừng hai chục ngàn nông dân chỉ có gậy gộc đã chống chọi với một sư dòan quân chíng quy.
Và tác giả đã đau buồn kết luân rằng “Sự thực thì dưới chế độ cộng sản không thể có một cuộc nội loạn nào có cơ thành công được”
Nhận xét của người viết
1/ Nhận xét về 5 tác giả viết trong biến cố Quỳnh Lưu:
          Trong 5 tác giả nói lại biến cố Quỳnh Luu, chúng ta thấy có những chi tiết cần lưu ý :
              a/ Theo LM Phan Phát Huồn và tác giả Cẫm Ninh thì nhân viên Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến là người Ấn Độ, nhưng tác giả Hòang ngọc Thành thì nhân viên Ủy Hội Quốc tế Kiểm Soát Đình Chiến là người Canada.
              b/ Tác giả Bùi Anh Trinh không nói là người nước nào.
              c/ Tác giả Hoàng Văn Chí cũng không nói là người nuớc nào. Nhưng ông tiết lộ một chi tiết quan trọng :” Cách đấy ít lâu, một số người trong nhóm khởi nghĩa thất bại trốn thoát  bằng thuyền vào Nam đã kể lại cho báo chí biết rõ chi tiết về vụ Quỳnh Lưu”.
         2/ Nguyên nhân của biến cố Quỳnh Lưu:
                 a/ Do sự uất hận từ lâu mà khởi đầu là những vụ đấu tố quá nghiệt ngã do cộng sản chủ trương và thực hiện gây vô vàn oan khuất đau đớn thiệt hại quá lớn về nhân mạng và tài sản.
                 b/ Sự mất mát đau thương không chỉ ở dòng tộc, gia đình, cá nhân mà luôn cả tôn giáo (phần đông là giáo dân Thiên Chúa giáo) như tài sản nhà thờ bị tịch thu, phá hủy hay trưng thu, các giáo sĩ bị giết hại, bị thủ tiêu, hay bị tù đày.
                  c/ Cựu Đại tá cộng sản Bùi Tín trong blog của ông, cũng xác nhận:”… thì những bi cảnh của thời xa xôi ấy cũng giống như gần đây thôi, tức tình cảnh dân oan trong nước, hành động lộng hành của công an… Có thể nói là sự bộc phát của lòng căm phẫn, uất hận của nhân dân để chống lại lực lượng cầm quyền, trong đó có quan chức tham ô, với bộ máy công an nặng nề và độc ác nhất. Như gần đây có bao nhiêu thanh niên chết trong đồn công an khi họ bị công an tra tấn.Tình trạng nhân dân phẫn nộ đối với hành động đàn áp của công an, từ công an tỉnh, công an huyện cho tới công an xã, không thể kể xiết. Blogger Bùi Tín cho rằng những cảnh nhiễu nhương đó chỉ là sự tiếp tục của bi kịch Quỳnh Lưu cho tới tận ngày nay.
         3/ Điều kiện để có biến cố Quỳnh Lưu : Chúng ta hãy tạm chấp nhận ba yếu tố: Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa làm điều kiện cho biến cố Quỳnh Lưu
                a/ Thiên thời: Người dân đã từng sống dưới chế độ sắt máu cộng sản và Hồ chí Minh đã có kinh nghiệm hải hùng thực tế. Trong khi ấy tại Miền Nam, chế độ mới nhân danh Tự Do Dân Chủ vừa khai sinh, được Hoa Kỳ và Thế Giới Tự Do ủng hộ. Quan trọng hơn, người dân Quỳnh Lưu càng tin tưởng và hy vọng nơi nhà lãnh đạo Miền Nam là người đồng đạo với họ.
                 b/ Địa lợi: Thông thường, vùng đất nào khô cằn, khí hậu khắc nghiệt; người dân xứ đó thường có chí quyết liệt đấu tranh để sinh tồn. Nghệ  An nói chung và Quỳnh Lưu nói riêng là một trong những nơi có điều kiện như thế. Vùng đất nầy thường sản sinh các phong trào phản kháng.
                c/ Nhân hòa: Bạo quyền Cộng sản quyết liệt từ chối, không thỏa mãn những đòi hỏi hợp lý và nhu cầu cần sinh tồn của đồng bào Quỳnh Lưu, đã trở thành chất xúc tác để người dân Quỳnh Lưu đoàn kết cho mục tiêu sinh tồn. Đó chính là yếu tố cho mối đồng thuận (nhân hòa) phát triển. Đủ điều kiện cho biến cố Quỳnh Lưu phát sinh.
          4/ Biện pháp giải quyết vụ Quỳnh Lưu: Nếu đảng cộng sản chấp nhận cho đồng bào Quỳnh Lưu được di cư vào Nam như đã ghi trong Hiệp Định Geneve, như hòai bảo, như lẻ công bằng thì những yêu sách của đồng bào Quỳnh Lưu sẽ không phải là vấn đề và cũng sẽ không có biến cố Quỳnh Lưu. Nhưng bản chất cộng sản là tham tàn, chuyên chính và tàn sát nên cộng sản Việt Nam sẽ phải đứng trước vành móng ngựa về tội diệt chủng, chống nhân loại trong vụ Quỳnh Lưu. Biến cố Quỳnh Lưu là tiếng thét uất hận đương nhiên phải có vì :
-Lịch sử cộng sản là lịch sử của bạo quyền, của mị lừa phỉnh gạt, người dân  đã quá căm thù oán hận.
-Chế độ mới trong Nam hứa hẹn một chế độ tốt đẹp hơn và được lãnh đạo bởi những  đồng đạo của họ.
-Vì quen lề thói dùng bạo lực để giải quyết, nên thay vì tuân thủ những điều kiện mà cộng sản đã công khai ký kết, chấp nhận chophép đồng bào Quỳnh Lưu được di cư vào Nam thì họ lại dùng bạo lực và đàn áp rất dã man.
       F/ Kết Luận:
          1/ Nguyên nhân của biến động Quỳnh Lưu:Dùng từ ngữ bạo loạn, khởi loạn hay khởi nghĩa để tường thuật biến cố Quỳnh Lưu là không đúng. Đây là cuộc vùng dậy đòi quyền sống, quyền được chống lại âm mưu bị tiêu diệt, quyền được lựa chọn đất sống hợp pháp mà Hiệp Định Geneve 1954 đã đành rành ghi và bạo quyền cộng sản đã ký kết công nhận nhưng không thi hành. Con giun xéo lắm cũng oằn huống chi con người mà lại là con người vùng Thanh Nghệ, vốn dĩ là vùng địa linh xuất phát những phong trào quật khởi của đất nước. Như vậy sự đòi hỏi nầy là hợp pháp và hoàn toàn không có bất cứ sự trợ lực hay chỉ huy nào từ bên ngoài.
          2/ Lý do cuộc biến động Quỳnh Lưu thất bại: Nguyên nhân dẫn đến biến động Quỳnh Lưu hoàn toàn do nỗi căm hận. Biến động Quỳnh Lưu thất bại vì đó là do đột biến, không do một tổ chức có dự mưu sắp đặt trước, không được lãnh đạo bởi những nhà chính trị hay quân sự lãnh đạo. Do không có sự tiếp trợ về tinh thần, vủ khí, lương thực, vật chất…từ bên ngoài, do thế giới không biết, do chính quyền VNCH đương thời cũng không biết để lên tiếng và can thiệp. Mãi về sau, có người tham dự cuộc khởi loạn thất bại ấy vượt thoát trốn được vào Nam kể lại chi tiết cho báo chí thì trong chính quyền VNCH mới biết ( theo tác giả Hoàng Văn Chí ). Khi chính quyền VNCH biết thì sự thể đã quá muộn màng, nội vụ đã đi vào quá khứ.
                   3/ Tội ác cộng sản đàn áp đồng bào Quỳnh Lưu: Thời gian, địa lý và nhân sự trong biến cố Quỳnh Lưu thuộc vê trách nhiệm của cái gọi là nhà cầm quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) phải giải quyết thỏa đáng yêu sách chính đáng. Nhưng thay vì giải quyết trên tinh thần công lý và trách nhiệm thì bạo quyền của cái gọi là nhà cầm quyền VNDCCH quay sang giết hại hơn 6000 người dân mà nhà cầm quyền VNDCCH đang còn phải chịu trách nhiệm bảo vệ đời sống và sự an toàn cho họ. Đó là tội ác, cộng sản phải bị đưa ra tòa án tội giết người dân mà họ đang phải chịu trách nhiệm phải bảo vệ.
            4/Liên Thành chạy tội cho cộng sản trong Biến cố Quỳnh Lưu: Khi Liên Thành cố biến sự kiện đòi quyền sống của đồng bào Quỳnh Lưu thành cuộc bạo loạn mà Liên Thành tưởng tượng rồi vu khống cho VNCH lãnh đạo, do Phan quang Đông người chỉ huy cao cấp nhất điệp báo miền Nam trực tiếp tổ chức và chỉ huy, Liên Thành viết:” Đạo diễn chính vụ nhân dân Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An  nổi dậy chống chính quyền Miền Bắc vào năm 1956 là một thí dụ điển hình công tác và nhiệm vụ của cơ quan nầy” (trang 6-BĐMT). Liên Thành đã lợi dụng danh chức Thiếu tá Chỉ Huy Trưởng CSQG/VNCH , đồng thời Liên Thành cũng nhân danh tình báo VNCH để xin nhận vai nhân chứng có giá trị thuyết phục cho cộng sản Việt Nam chạy tội giết dân Quỳnh Lưu trước tòa án nhân loại cũng như tòa án lịch sử Việt Nam về cáo trạng cộng sản Việt Nam can tội diệt chủng trong biến cố Quỳnh Lưu 1956. Tại sao ? Xin giải thích:
               a-/ Nếu biến cố Quỳnh Lưu là là hậu quả của “tức nước vỡ bờ”. Vi những yêu sách của người dân Quỳnh Lưu là hợp pháp, hợp đạo lý, không do bất cứ thế lực bên ngoài, lãnh đạo hay xúi giục, yễm trợ mà nhà cầm quyền VNDCCH (một danh xưng che đậy bộ mặt thật cộng sản) có bổn phận phải thỏa mãn. Về phương diện trách nhiệm thì nhà cầm quyền VNDCCH có trách nhiệm phải bảo vệ sự an toàn sinh mạng và tài sản của đồng bào Quỳnh Lưu. Nhưng thay vì phải thực hiện công chính, thay vì phải bảo vệ, thì cộng sản dùng bạo lực và đàn áp dã man, dùng bạo lực khốc liệt để tiêu diệt người dân thì rõ ràng cộng sản chính là kẻ tội đồ phải trả lời trước vành móng ngựa của tòa án công lý  nhân loại cũng như tòa án lịch sử.
                                          
                                 (Đồng bào Quỳnh Lưu trong những ngày biến động)  
                     b-/ Nhưng nếu biến cố Quỳnh Lưu là do tình báo Miền Nam, một lực lượng đối trọng thù nghịch với miền Bắc, được tiến hành dưới sự chỉ đạo của một nhân vật ưu hạng , của một cơ quan điệp báo cao cấp nhất thượng đẳng nhất của VNCH như Liên Thành khoác lác, phách tấu, thì nội vụ không còn là cuộc vùng dậy đòi quyền sống. Mà là cuộc chiến tranh đối mặt giữa hai kẻ tử thù trên chiến địa. Từ đó, tội diệt chủng giết 6000 dân của cộng sản sẽ có cơ sở để biện bạch chạy tội và sẽ được trắng án. Nếu không do cộng sản chỉ đạo thuê mướn thì Tại sao Liên Thành lại chạy tội cho cộng sản giết
                                
                              ( Liên Thành đang phách tấu)

dân Quỳnh lưu trong vụ biến động Quỳnh Lưu 1956?. Điều đặc biệt là có sự trùng hợp: Chỉ Liên Thành và cộng sản mới viết cuộc phản kháng của Quỳnh Lưu do Phan Quang Đông đạo diễn.
     Qua những sự kiện trên, không thể phủ nhận Liên Thành đóng kịch tâng bốc, thỏa mãn tự ái khoe khoang nhằm xóa mặc cảm ôn chân thực dân Pháp và tội ác của Ngô triều Cần lao, nhưng thực chất là chạy tội cho cộng sản Việt Nam. Từ đó, chúng ta đã có diều kiện nhìn thấy được bộ mặt thật gian xảo trí trá của Cần lao. Đủ điều kiện đi đến kết luận rằng Cần Lao và cộng sản là hai tên tội phạm, chúng chống nhau, tiêu diệt nhau hay hòa hoản, toa rập với nhau chỉ vì quyền lợi đốn mạt lưu manh. Liên Thành chỉ là tên hành nghề chưởi mướn, chỉ là tên tay sai do hai tập đoàn tội phạm khốn nạn cộng sản và Cần Lao thuê mướn.
                                                                                
Bài 3 :         Liên Thành Bịt miệng để dễ vu cáo

                                                                                                Trần Việt

          Bịt miệng bằng mọi hình thức vốn là thói quen trong kỹ thuật khống chế của cộng sản, đó cũng là bài học cho cá nhân, tập đòan, hay chế độ chính trị độc tài. Qua kinh nghiệm chúng ta có thể dễ dàng thấy rằng kèm theo trước và sau hành động bịt miệng là sự hung hăng, bắt bớ hoặc không tiếc lời mạt sát đối thủ. Nếu có thể làm được, họ không loại trừ bất cứ phương tiện  nào nhằm vô hiệu hóa sự phản kháng của đối thủ. Với những kẻ độc tài, độc ác nầy thì chân lý là độc quyền của họ. Sự bịt miệng người khác còn mang tham vọng bất chấp sự thật, bất chấp đạo lý, bất chấp lý luận phản biện. Giới giang hồ gọi chiêu thức nầy là “Tiên hạ thủ vi cường”, hay nôm na hơn là: “lấy thịt đè người”.
          Chúng ta hãy nghe Liên Thành bịt miệng sự thật. Liên Thành nhẫn tâm mỉa mai miệt thị sự  phẫn nộ của bất cứ người nào, dù đó là nạn nhân bị chết oan khuất, tất tưởi dưới bàn tay sắt máu tàn độc Phan quang Đông. Liên Thành thô bạo bịt miệng  những ai không đồng quan điểm, muốn tìm ra sự thật. Qua phần  tài liệu Biên Bản Hỏi Cung Phan quang Đông dưới đây, chúng ta sẽ thấy kỹ thuật bịt miệng của Liên Thành.
           Liên Thành vì binh vực kẻ tàn ác mà đạp bừa lên lương tâm làm người. Liên Thành được thuê mướn để tung hỏa mù, làm những người nghiên cứu lịch sử thuộc những thế hệ sau phân vân không xác định dược sự thật lich sử. Liên Thành tung hỏa mù để  phục vụ cho sự gian xảo, cho bóng tối quyền uy, ngụy biện cho sự thống trị vĩnh viễn, cho sự tàn ác kinh khiếp của Ngô triều mà hậu quả là bao lương dân vô tội đã phải chết oan khuất, gia đình họ tan nát, tài sản  do công lao của họ chảy vào trong túi áo các tên trong gia đình Ngô đình Diệm, chủ nhân của Phan Quang Đông.           
          Vì muốn biến một tên đại tội phạm được chế độ Ngô đình Diệm cho khoát áo chính quyền để ngang nhiên thực hiện hành vi tội phạm cướp của giết người thành một vị anh hùng - nói theo cách nói của Liên Thành là: - Liên Thành đã “Bán rẻ lòng lương thiện tối thiểu” của mình để tuân theo mệnh lệnh của dư đảng Cần Lao dọn đường cho mưu đồ bất chính hoài vọng phục hồi và tiếp tục công trình đã bị dang dở từ khi anh em Diệm Nhu đền tội, từ khi đảng Cần Lao gian ác vùi thây dưới ngút ngàn phẩn hận của lịch sử, công trình mà Linh Mục Trần Tam Tĩnh đã kể rõ tội ác trong tác phẩm “Lưỡi Gươm Và Thánh Giá”. Không, nhất định không thể cho dư đảng Cần Lao ngóc đầu dậy, tiếp tục dùng Lưỡi Gươm Và Thánh Giá để thao túng lịch sử xích hóa Việt Nam như Ngô triều đã dùng bọn nha trảo Cần Lao, như thực dân Pháp những tên cướp nước lưu manh dưới lớp áo chùng thâm đã sử dụng giáo dân Thiên Chúa Giáo làm lực lượng nội gián phản bội mà lịch sử Việt Nam đã từng phải căm hận. Bao nhiêu chục ngàn chiếc đầu những người con yêu của Mẹ Việt Nam vẫn chưa làm cho bọn Thánh Giá Và Lưỡi Gươm thỏa cơn khát vọng tay sai bán nước, mong cầu kiếm tìm chỗ tốt trên cõi Thiên đường, trên nước Trời chăng?
          Liên Thành viết :”Theo hồ sơ số 95 ngày 8 tháng 5 năm 1964 lưu trữ tại Văn khố BCH/Thừa Thiên Huế, thì người hỏi cung Phan Quang Đông là Trần Văn Cư, Chủ Sự Phóng Cảnh Sát thuộc Nha Cảnh Sát miền Bắc Trung Nguyên Trung Phần và Tư Pháp Cảnh Lại là Nguyễn Văn Mão, làm thư ký.(trang 9 BĐMT)
      Qua trang 10 BĐMT  Liên Thành nhận định :’Như vậy có khác gì chùa và Việt cộng phối hợp hỏi cung trùm tình báo miền Nam Việt Nam Phan Quang Đông (tô đậm và gạch đen là của người viết để lưu ý độc giả về thâm ý Liên Thành muốn gán cho Phật giáo với cộng sản là một), Liên Thành viết tiếp“vì Trần Văn Cư là đệ tử ruột của Thích Đôn Hậu và Nguyễn Văn Mão nguyên phái khiển Tình Báo Chiến Lược, bị bắt trước đảo chánh 1963. Sau nầy Trần Văn Cư được phong làmPhó Giám Đốc CSQG vùng I (trang 10 – BĐMT).
        Như thế, theo Liên Thành hễ là Phật tử, hễ là (nhà) Chùa thì là cộng sản, là vô giá trị, và không được tham gia chính quyền?. Như thế, theo Liên Thành chỉ có những người theo Thiên Chúa giáo mới có giá tri hay sao?. Ấy thế, Liên Thành lúc nào cũng leo lẻo chối mình không chống Phật Giáo. Hay thâm ý của Liên Thành là không chống Phật giáo, chỉ tiêu diệt Phật giáo! Ngày xưa Liên Thành thăng quan tiến chức nhờ vào tham ác gian xảo, ngày nay Liên Thành phùng mang trợn má chưởi để được dư đảng Cần Lao trọng dụng. Liên Thành quên rằng những viên chức chỉ huy mà Liên Thành đã khúm núm quỵ lụy hèn hạ xưng em và hân hạnh được gọi bằng mầy là những viên chức dưới quyền những Tướng Lãnh đã lãnh đạo cuộc Cách Mạng 1.11.1963, đã cho Ngô triều ra nghĩa địa! Hèn và nhục như thế thì Liên Thành chỉ là tên mặt người nhưng lòng dạ thú vật bất tri bất chính vô nghì bất nghĩa.
      Nhận thấy bịt miệng như thế, còn chưa đủ, Liên Thành vận dụng đến kiểu “Bí mật Quốc Gia” như cộng sản hiện nay vẫn  thường chơi trò gian trá hạ tiện nầy để bịt miệng người dân: ”Vụ nhân dân Quỳnh Lưu, Tỉnh Nghệ An nổi dậy chống chính quyền miền Bắc năm 1956, kế họach và hành động đều do ông Phan Quang Đông và những Điệp viên ông gởi ra miền Bắc thực hiện. Còn nhiều những điệp vụ khác nữa, mà mãi đến nay, tuy thời gian tính cũng đã quá lâu, nhưng vẫn chưa thể tiết lộ.( trang 11 – BĐMT). Liên Thành chỉ biết sủa theo lịnh chủ. Liên Thành vì không có kiến thức hay vì não bộ Liên Thành quá lười biếng hoặc vì không được lịnh nên tầm hiểu biết và nhân cách của Liên Thành quá đốn mạt khi Liên Thành viết câu trên. Chuyện biến động Quỳnh Lưu là cuộc vùng dậy đòi quyền được làm người. Cuộc vùng dậy nầy thật đáng được nhân loại khâm phục, đáng được ghi vào những trang sử bất khuất của giống nòi Việt Nam. Liên Thành chỉ là hạng sán lãi, vùng sinh hoạt của Liên Thành là phần bên trong của ruột già thì Liên Thành biết gì vế Quỳnh Lưu mà phách tấu chưa thể tiết lộ!
       Đã gần 50 năm rồi , nếu tính từ Ngô triều bị cáo chung, và nếu tính từ cuộc khởi loạn năm 1956  là 55 năm mà vẫn chưa thể tiết lộ!!!; Giả thử người trẻ nhất vào lúc ấy và bị pháp lý ràng buộc là 18 tuổi thì từ vụ Quỳnh Lưu khởi nghĩa đến hôm nay đã là cụ già 73 tuổi. Như thế, cũng đủ để chứng minh sự bất lương của Liên Thành rồi.

Nhận định thêm của người viết:
    1/ Sống trên đời, con người bình thường nhất cũng phải hiểu về lẻ công bằng. Lẻ công bằng được hiểu giản dị nhất là khi anh nói xấu, kết án ai thì anh phải cho người đó có cơ hội trình bày quan điểm của họ. Về luật pháp, khi nhà cầm quyền truy tố người dân thì vì nhà cầm quyền có sức mạnh hơn, có quyền lực hơn, nhà cầm quyền phải trưng ra bằng chứng để kết tội người dân. Sau đó, căn cứ vào bằng chứng của nhà cầm quyền người dân có quyền đưa ra những bằng chứng, nhân chứng, vật chứng và cả lý luận để phản bác, để chứng minh người dân vô tội (xin lưu ý rằng nhà cầm quyền phải có nghĩa vụ cung cấp phương tiện để người dân có cơ hội tìm ra những bằng chứng nhằm phản bác sự kết án của nhà cầm quyền đối với họ). Trước khi tòa tuyên án, dù đang bị truy tố người dân vẫn là vô tội, pháp luật có nghĩa vụ phải bảo vệ  họ. Nhưng trong BĐMT Liên Thành với tư cách Thiếu tá Chỉ Huy Trưởng CSQG/VNCH  Thừa Thiên, Huế vì bảo vệ Phan quang Đông mà không đếm xỉa gì đến nỗi oan khuất của những người bị tiêu tan sự nghiệp, bị nghiệt ngã tang tóc và thiệt mạng chỉ vì khát vọng buớc lên quyền lực bằng máu lệ người khác .
       2/ Theo Liên Thành hể bất cứ ai là Phật giáo đều không đáng tin cậy, đều là cộng sản – nhưng xin quý độc giả vui lòng đừng tính ông Liên Thành và thân nhân của ông bởi tại trang cuối bài “Lời Giới Thiệu “ –(không ghi số thứ tự trang) viết rằng :” Thêm một điều nữa về tác giả Liên Thành, ông là một Phật tử thuần thành, gia đình ông có truyền thống đạo đức lâu đời, chú và anh ruột của ông hiện là hai vị Hòa Thượng đức cao vọng trọng tại Huế”. (nhưng sự thật  thì Liên Thành không người anh ruột nào đi tu cả dù là Phật giáo hay bất cứ tôn giáo nào, chúng tôi sẽ chứng minh Liên Thành có thực là Phật tử thuần thành không…!).
        Cộng sản thích tâng bốc, vái lạy mình ngay cả khi đang còn sống. Phía VNCH thì có ông Ngô đình Diệm  bị lây nhiễm vi trùng khóai tâng bốc, một thứ bịnh họan tưởng chỉ có cộng sản và Ngô triều độc quyền. Nay còn có thêm Liên Thành, kẻ đích truyền xuất sắc đang  kế thừa căn bịnh khoái vái lạy, tâng bốc. Nhưng Liên Thành không nói rõ chú và anh ruột Liên Thành là hai vị Hòa Thuợng nào có đáng được xem là đức cao vọng trọng hay chính là Đại đức Chơn Kim (anh em chú bác với Liên Thành).Vụ Trưởng Vụ Thanh Niên người điều khiển vụ mang bàn thờ Phật xuống đường mà trong dịp nầy ông Thiếu Tá Chỉ Huy Trưởng Liên Thành hân hạnh được Đại Tá Nguyễn ngọc Loan gọi bằng MẦY. Tại phần tiểu sử ở bìa sau sách BĐMT Liên Thành ghi thời gian Liên Thành đảm nhiệm chức vụ, nhưng  Liên Thành dấu nhẹm 3 khỏang thời gian :- Học sinh Quốc Học Huế - Sinh viên Đại học Huế - Sĩ Quan Quân Lực VNCH. Liên Thành học trường Quốc Học Huế từ năm nào đến năm nào ? Văn bằng Liên Thành tốt nghiệp khi rời truờng Quốc Học? Liên Thành là sinh viên Đại học Huế mà phân khoa gì và vào năm nào? Liên Thành vào Đại học Huế với tư cách gì bằng với bằng cấp học vấn là gi khi nhập trường? tình trạng tốt nghiệp của Liên Thành ra sao? – Liên Thành không cho biết Quân trường và khóa ông xuất thân, binh chủng ông phục vụ trước khi ông xưng Em với Trung tá Phan văn Khoa Tỉnh trưởng Thừa Thiên.
       3/ Liên Thành dùng chữ phong cho ông Trần văn Cư có hàm ý rằng ông Trần văn Cư không có khả năng, không có tư cách, chữ dùng Liên Thành rất khiếm nhã vổ lễ nếu không muốn nói là thậm mất dạy. Liên Thành nên nhớ rằng ông Trần văn Cư đã là chủ sự  phòng Nhân Huấn Nha cảnh sát Quốc Gia Mìền Bắc Trung Nguyên Trung Phần tại Huế. Trong ngành CSQG tại Huế,  những ông như Trương đình Cồ, Đòan văn Ngân, Vũ tuơng Phụng, Trần văn Huế là bậc thầy về các ngành chuyên môn, những bậc Lão làng trong lực luợng CSQG. Ông Trần văn Cư là cấp trên của ông Võ văn Bằng (không phải ông Võ văn Bằng trưởng ban cải táng Mậu Thân) và chính Thiếu tá Võ văn Bằng trong đòan thanh tra vụ Tôn thất Lễ Trưởng ban Nội Dịch của Liên Thành.
      Hỏi Liên Thành:
       -Ai đã van xin để Ban Thanh Tra Nha CSQG vùng I nhẹ tay trong vụ Tôn thất Lễ và sau đó phải đưa ông Phan văn Ty thay thế? Tổ chức nào đưa  Liên Thành từ một Thiếu úy Bảo An Đoàn thuộc Chi khu Nam Hòa được đề bạt và nhờ đó mà leo lên ghế Chỉ Huy  Trưởng CSQG Thừa Thiên, Huế. Liên Thành đừng quên thời gian ấy có rất nhiều Sĩ Quan CSQG là Biên Tập Viên (sau chuyển đổi gọi là Đại Úy CSQG và Thẩm Sát Viên (sau chuyển đổi gọi là Thiếu Úy). Họ là những Sĩ Quan CSQG được đào tạo tại Học Viện CSQG (tương đương Đại Học hay Cao cấp chuyên nghiệp). Tuy có khả năng, có học vị nhưng họ không có có thế lực đảng phái để làm chiếc dù tiến thân nên họ đành phải ngậm ngùi dưới quyền của kẻ chỉ đáng là học trò của họ, đó cũng chính là một trong những nguyên nhân mất nước. Nếu Liên Thành không biết thì hỏi ông Dân biểu Nguyễn Lý Tưởng đảng viên Đại Việt cũng là dân Phú Cam, tín đồ Thiên Chúa Giáo tại Huế sẽ rõ, và nếu muốn biết thêm thì tôi sẽ gởi cho Liên Thành các bài viết của tác giả Hương Lê –tức Tuệ Chương Hoàng Long Hải nguyên Giáo Sư Trường Bán Công Huế, nguyên Đại Úy Thiết Giáp, sau biệt phái sang Lực lượng CSQG/VNCH).
          Nếu Liên Thành là một “Phật tử thuần thành” (theo như Liên Thành thường nhìn nhận như thế) thì Liên Thành đừng quên “khẩu nghiệp”. Liên Thành tạo ra, Liên Thành sẽ phải trả. Liên Thành  cưới con gái của bà phó nhòm Maria Mộng Hoa, (có tiệm chụp hình trước cửa Thượng Tứ Huế) mà cải đạo Thiên Chúa. Ai từng sống tại Đà Nẳng lại không biết khu Thanh Bồ Đức Lợi là khu của nhóm Thiên Chúa giáo quá khích và sắt máu. Khu nầy được cai trị theo kiểu Giáo Khu Tự Trị, chỉ tuân hành mệnh lệnh của Linh Mục Chủ Chiên địa phương, còn luật pháp Quốc Gia là cỏ rác. Thế nhưng từ tháng 11/1974  cho đến ngày Liên Thành đào ngũ, sau khi bàn giao chức vụ Chỉ Huy Trưởng CSQG/VNCH Tỉnh Thừa Thiên- Huế,” Liên Thành về trú ngụ tại khu Thanh Bồ Đức Lợi” Đà Nẳng! (xem Biến Loạn Miền Trung của tác giả Lê Xuân Nhuận trang 375).

                               Tác phẩm Biến Loạn Miền Trung và tác giả Lê Xuân Nhuận

          Nếu Liên Thành có truyền thống đạo đức, nếu bàn tay Liên Thành  không nhám nhúa nhũng lạm thì chắc chắn  Liên Thành không hoảng sợ trước Thiếu tá Võ văn Bằng Trưởng Đoàn Thanh Tra Bộ Chỉ Huy CSQG Vùng I .
          Vì Liên Thành gây khẩu nghiệp quá nặng nên nhiều vị lão thành trong ngành CSQG/VNCH rất buồn phiền, trước đây Quý vị trưởng thượng ấy xem Liên Thành như loại “ngựa non háu đá” hay chỉ là một kẻ “phách tấu” nhưng Liên Thành ngày càng hung hăng, nên quý vị ấy sẽ phải bằng cách nầy hay cách khác thức tỉnh Liên Thành.
          Người viết bài nầy không “nợ nần” gì với Liên Thành, nhưng vì Liên Thành bất chấp danh dự của bất cứ ai, miễn là được tự đề cao vái lạy chính Liên Thành, nên phải dùng hình thức nầy như là một phuơng tiện khuyên Liên Thành nên dừng lại, đừng vì tự đề cao cá nhân mình mà thóa mạ vô lễ với những bậc đáng kinh và gây nhiễu hại lịch sử.
     3/  Liên Thành và những người ủng hộ Liên Thành đều leo lẻo chối là không vu cáo Phật Giáo là cộng sản nhưng ngay đầu trang 10 BĐMT Liên Thành viết :”Như vậy có khác gì Chùa (chữ Chùa Liên Thành không viết hoa) và Việt cộng phối hợp hỏi cung trùm tình báo miền Nam BáoViệt nam? Phan quang Đông”(Sách BĐMT ghi là han – có lẻ là Phan). Đến đây thì chúng tôi đã bắt quả tang Liên Thành vu cáo Phật giáo. Liên Thành là Chỉ Huy Trưởng CSQG đương nhiên Liên Thành cũng là Sĩ quan Hình cảnh lại phụ tá ông Biện lý, Liên Thành có biết tội vu cáo cho nguời khác mà hậu quả nghiêm trọng có thể dẫn tới tội phản quốc thì bản án tội trạng của kẻ vu cáo trong bộ hình luật sẽ xử phạt ra sao?
          Xin nhắc lại rằng -  Cá nhân chúng tôi chưa hề một lần tiếp chuyện với Liên Thành (dù trước hay sau 1975), tôi rời xa Huế sau 1963. Những bài viết của tôi không nhằm “tố cáo, nói xấu, mạ lị...cá nhân Liên Thành. Những chi tiết mà chúng tôi có được để viết phần nhiều lấy từ những tài liệu như sách báo (giấy hoặc internet) hay những gì chúng tôi biết.
           Vì vậy, kính cầu mong quý bạn đọc dù đồng ý hay không cũng xin vui lòng bình tĩnh và dùng những lời nhẹ nhàng. Nhất là xin đừng có sẵn thiên kiến. Những tài liệu trích dẫn đa phần đều có thể tìm kiếm để so chiếu.
             Dĩ nhiên cá nhân chúng tôi sẽ vô cùng cám ơn và sẳn sàng nhận sự sai sót nếu có nhưng phải được chứng minh bằng tài liệu và với sự khoan nhã.
          Về phương diện ngôn ngữ, có khi chúng tôi phải sử dụng, hoặc phải trích dẫn chữ “Thiên Chúa Giáo, Cần Lao...) đó chỉ là danh từ và hoàn toàn không hàm ý kỳ thị hay khiêu khich, vô lễ.
          Cá nhân chúng tôi, không phải nhà văn; nên trong cách hành văn, diễn tả sẽ có rất nhiều khiếm khuyết. Chúng tôi cũng còn phải đi cày để trả nợ áo cơm cho mình và cho gia đình nên chắc chắn sẽ có sự chậm trễ. Tất cả những khiếm khuyết, trễ nải ấy, xin cầu mong được tha thứ vì dù đã hết sức cố gắng, khả năng chúng tôi chỉ có như thế.

Bài 4        KHẨU CUNG PHAN QUANG ĐÔNG

                                          Trần Việt

      Chúng ta hãy cùng tìm xem bản khẩu cung do chính Phan quang Đông khai với viên chức Tư Pháp VNCH. Sau đó, cùng nhân định có phải vì Phan quang Đông điều hành tổ chức điệp báo miền Nam (chính trị) mà bị xử tử hình hay do một tội hình sự không?.
                                                                    *
KHẨU CUNG PHAN QUANG ĐÔNG
Năm một ngàn chín trăm sáu mươi ba, ngày ba mươi tháng 12 hồi chín giờ
Chúng tôi Trần Văn Cư, Chủ sự phòng Cảnh Sát, Nha Cảnh Sát Quốc Gia Miền Bắc Trung Nguyên Trung Phần, Tư Pháp Cảnh Lại có ông Nguyễn-văn-Mão giúp việc thư ký có hỏi cung tên :
Phan Quang Đông

Hiện can: cán bộ Việt-Cộng lộn sòng trong hàng ngủ Quốc Gia.
Hỏi về lý lịch, “bị can” đã khai:
Vấn đáp: Tôi tên là Phan-quang-Đông, 37 tuổi quốc tịch Việt-Nam con của ông Phan Quang Cù ( chết ) và bà Đậu-thị-Ba, sanh chánh quán : Lê Định, Hương Sơn Tỉnh Hà-Tĩnh, hiện trú ngụ tại 9 đường Lê Lợi, Huế nghề nghiệp : Công chức Sỉ quan đồng hóa Sở Nghiên cứu Chính trị, học lực tương đương Tú tài, công giáo, đảng viên Cần Lao Nhân Vị* từ năm 1955, gia cảnh: vợ là Nguyễn thị Thúy Toan và 1 con, anh em: Phan quang Mai, Phan quang Khuê, Phan quang Quê hiện cùng với mẹ ở Bắc Việt, tiền án: không
Hỏi về qúa trình họat động, bị can khai:
Vấn đáp: Từ 1939 đến 1944, tôi là học sinh trường Saint Baptiste de la Salle Nha Trang, Năm 1944-45, Tôi học trường Chính-Hóa, Vinh. Sau 9/3/45 tôi ở nhà. Thời Việt Minh, tôi gia nhập giải phóng quân đến năm 1946, giải ngủ vì lý do sức khỏe. Từ 9/1946 đến 1950, tôi tiếp tục học tại trường Hùynh Thúc Kháng, Hà Tĩnh (Vùng Việt Minh). Từ 1950 đến 1953, tôi dạy học tại trường Tư Thục Công giáo Thiên Khải đường Nghệ An, tháng 12/1953 tôi cùng các tên Phan Quang Điều, Phan Đình Phúc và Phan Quang Chính trốn qua Lào
- Từ tháng tư 54 đến tháng 9/54 tôi về Sàigon, học trường sinh viên sỉ quan Thủ Đức rồi đào ngủ.
- Tháng 2/55, tôi vào làm cho Sở nghiên cứu Chính trị của Bác sỉ Tuyến và đựơc ông nầy chọn đi học khóa Tình báo Phi Luật Tân, đến 6/55 mản khóa, trở về sở Nghiên cứu phụ trách việc dịch các bản tin Việt ra Pháp.
- Từ 3/56 đến 10/56 tôi làm Trưởng Ban Phỏng vấn di cư vượt tuyến tại Quảng Trị và từ 10/56 đến 7/57, tổ chức tình báo tìm hiểu họat động VC từ Đông Hà vào Quảng Nam liên hệ với Nha Công An Trung Phần thu thập tin tức VC gởi về cho Sở Nghiên cứu Sàigon.
- Từ 7/57, tổ chức người vượt tuyến để lấy tin tức VC, tháng 10/57 Sở Nghiên cứu chỉ thị cho tôi thành lập Trung Tâm Tiếp Cư tại Huế họat động đến 9/63 thì Trung Tâm nầy gỉai tán.
- Tháng 5/61 được lệnh xây dựng Trung Tâm Kiểm Thính Huế họat động cho đến ngày tôi bị bắt
Hỏi khi ra đi bị can giao phó người mẹ cho ai và từ ngày vào Nam đã nhận tin tức gia đình như thế nào bị can khai:
Vấn đáp: Khi ra đi tôi có giao mẹ tôi cho lại mấy người em trông nom về tin tức gia đình tôi biết qua bưu thiếp của những người ở vùng VC vào cho hay
Hỏi về sự liên hệ giữa bị can với 3 tên xuất thú bị can khai:
Vấn đáp: Tôi với ba tên ấy đều có bà con với nhau : tôi gọi Phan Quang Điều bằng chú, Phan Bình Phúc bằng anh con ông Bác, Phan Văn Chính bằng chú (Phan Văn Hóa chú của Phan Văn Chính, tôi gọi bằng Ông) việc vào Nam vì trong vòng bà con nên có bàn định với nhau .
Hỏi về hành trình xuất thú và lý do chọn hành trình ấy bị can khai:
Vấn đáp: Khỏan 12/53 tôi cùng 3 tên nói trên vượt biên giới Lào Việt, gặp một đơn vị quân đội Liên Hiệp Pháp đưa chúng tôi về Savannakhet và Vientiane giao cho phòng II khai thác về tình hình Việt Cộng, sau chừng 1 tháng ông Phan Văn Hóa, thân sinh của Phan Văn Chính lúc ấy làm ở Comrep Lào, bảo lảnh chúng tôi về. Chúng tôi chọn hành trình nầy vì tin tưởng ở sự giúp đở của ông Phan Văn Hóa. Ông Hóa sau về làm Tỉnh trưởng Pleiku vào khỏang 1957, đã chết trong một tai nạn xe hơi.
Hỏi về việc đã vận động cho bị can và tên kia nhập hoc trường sinh viên Sĩ quan Thủ Đức và tại sao khi về Sàigon lại phân tán, cũng không cùng học một khóa Thủ Đức bị can khai:
Vấn đáp : Thời gian tôi ở Lào, nhờ có ông Phan Văn Hóa làm ở Comrep vận động cho chúng tôi về học Sĩ quan Thủ Đức Sàigon. Chúng tôi làm đơn nhờ ông Hóa xin cho chúng tôi về Sàigon trừ Phan Văn Chính thì về sau. Tất cả chúng tôi đồng xin học một khóa, nhưng khi về Sàigon Phan Quang Điều và Phan Bình Phúc bị đau không học được sau lên Đà Lạt học . Phan Quang Điều hiện là Trung Úy An Ninh Quân Đội, Phan Bình Phúc Trung úy Công Binh còn Phan Văn Chính khỏan 1957 mới đi Mỹ học Không quân hiện là Thiếu Úy .
Hỏi khi dự định đào ngủ đã bắt liên lạc với bác sĩ Tuyến chưa và đào ngủ với dụng ý gì bị can khai:
Vấn đáp: Sau khi hiệp định Genève ký kết tình trạng trong quân đội hơi phức tạp và lại như đa số người công giáo di cư, tôi muốn tham gia những họat động ủng hộ ông Ngô Đình Diệm nên tôi đào ngủ. Với Bác sĩ Tuyến, tôi chỉ biết qua giới thiệu của ông Đỗ La Lam. Ông Đỗ La Lam khi ở vùng VC, chủ bút tờ Tiến Hành, cơ quan ngôn luận của Liên đòan Công giáo Nghệ Tĩnh Bình vào năm khỏan 1951 làm ở tờ báo Xã Hội của ông Nhu .
Khi ở Lào nhờ tờ báo nầy tôi mới biết ông Lam và khi về Sàigon tôi có trực tiếp đến gặp ông ấy
Hỏi về trường hợp hợp tác với Bác sĩ Tuyến bị can đã khai:
Vấn đáp: Từ 7/55 đến 3/56 tôi làm việc tại Sở Nghiên Cứu Sàigon phụ trách dịch những bản tin bằng Việt ngữ ra Pháp. Từ3/56 đến 7/56 tôi được chỉ định làm ban thẩm vấn di cư tại Quảng Trị trụ sở đặc tại Ty CA . Thành phần ban nầy gồm 2 nhân viên của Nha Tổng Giám Đốc CS và CA và hai nhân viên của Sở Nghiên Cứu. Nhiệm vụ ban nầy là thẩm vấn những người di cư vượt tuyến.
Từ 7/56 đến 10/56, tôi về Sàigon tường trình công việc và làm việc tại đây.   Từ 10/56 đến 1/57 tôi nhận chỉ thị của Bác sĩ Tuyến ra nghiên cứu tổ chức Tình báo tìm hiểu họat động của VC từ Đông Hà vào Quảng Nam đến tháng 1/57 Bác sĩ Tuyến ra lệnh đình chỉ công việc ấy lại.
Từ 3/57 đến 5/67 tôi được chỉ thị liên lạc với Nha Công An Trung phần để lấy tin gởi về Sở Nghiên Cứu Chính Trị Sàigon.
Từ 7/57 tôi được chỉ thị tổ chức người vượt tuyến để lấy tin tức Việt Cộng tại vùng giới tuyến, hàng tháng tổ chức được phụ cấp 40.000 $,công việc nầy đến tháng 3/61 thì chấm dứt. Tháng 10/59 tôi được chỉ định thành lập Trung tâm tiếp cư để tiếp đón và thẩm vấn sơ khởi những người vượt tuyến. Đến tháng 9/63 thì Trung tâm nầy giải tán vì người vượt tuyến thưa dần, mỗi tháng Trung tâm tiếp cư được phụ cấp 60.000 $ .
Khỏan tháng 5/61 Sở Nghiên cứu chỉ thị cho tôi xây dựng Trung Tâm Kiểm Thính, có nhiệm vụ theo dõi các di chuyển và họat đông quân sự VC tại Lào và miền Nam, xây cất Trung tâm nầy phí tổn trên 3 triệu đồng do ông Tôn Thất Hường đứng tên và ông Trần Tuyên Cáo, thực hiện kinh phí do Nha Tổng Giám Đốc Kiến Thiết đài thọ .
Hỏi về trường hợp hợp tác với Ngô Đình Cẩn, bị can khai:
Vấn đáp: Linh mục Cao Văn Luận biết rỏ gia tộc tôi từ khi tôi vào ở Hà Tĩnh. Thời gian tôi vào Sàigon có gặp cả ông Phan Văn Hóa nên biết rỏ chúng tôi. Khỏang tháng 3/57, sau khi được chỉ thị liên lạc với Nha Công An Trung Phần như đã khai trên tôi nhờ sự tiến dẫn của linh mục Cao Văn Luận nên được các ông Ngô Đình Cẩn để có phần dể dàng làm việc và tiến thân trong tươnglai
Hỏi về việc nhận lệnh của Ngô Đình Cẩn để khai thác vụ gọi là gián điệp Pháp bị can đã làm như thế nào, bị can khai.
Vấn đáp: Khỏan 8/57 Ô. Hồ Đắc Trọng tìm gặp tôi bảo lên Ô. Cẩn để ông ấy giao tôi một vụ gọi là gián điệp Pháp và ông Vũ Đình Ban đang phụ trách. Ông Cẩn không giao cho tôi một hồ sơ tài liệu nào mà chỉ nói rằng ngòai nầy đã bắt ông Tống Văn Đen khai thác chưa có kết qủa, tôi phải làm gấp cho có hồ sơ gởi vào Sàigon. Tôi lại được nghe các ông LêKhắc Duyệt, Trần Văn Hương và Hồ Đắc Trọng cho biết thêm là ông Nguyễn Đắc Phương, làm kinh tài cho gián điệp Pháp nhảy lầu tự tử. Ông ấy liên lạc với Pháp ở Lào và Pháp Nhà Đèn Huế. Vụ ông Nguyễn Đắc Phương bị bắt và bị thẩm vấn do ông Vũ Đình Ban và Dương Văn Hiếu phụ trách .
Sau khi lảnh chỉ thị Ô. Cẩn tôi sang lầu Hòa Bình gặp Ô. Tống Văn Đen, ông ấy bị câu lưu và khai thác từ 9-10 ngày rồi nhưng chưa khai báo gì, thuyết phục không được, tôi nghỉ tới việc bố trí một cuộc thủ tiêu giả tạo để áp đảo tinh thần Ô. Tống Văn Đen, vì qúa sợ, Ô. Tống Văn Đen, khai có nhận làm gián điệp cho Pháp có nhận thư của hai tên Pháp ở Nhà Đèn Huế, giao lại cho hai ông Phan Văn Thí và Nguyễn Văn Yến. Tôi cho ông Đen làm tờ khai xong, vào gặp Ô. Cẩn để trình bày về kết qủa khai thác . Ông Cẩn lộ vẻ vui mừng, chỉ thị bắt hai ông Phan Văn Thí và Nguyễn Văn Yến vào, bảo tôi “hai người đó làm kinh tài, khai thác cho đươc”.
Do đó Ty Cảnh Sát Huế phụ trách việc bắt và khám nhà hai ông Thí và Yến, nhưng không bắt gặp được một tài liệu gì về họat động gián điệp của họ cả.
Bằng vào lời khai của ông Đen, tôi hỏi ông Thí có nhận thơ hai người Pháp ở Nhà Đèn do ông Đen đưa lại không, ông Thí phủ nhận. Tôi dùng biện pháp mạnh như tra điện, cho uống nước dơ do Nguyễn Văn Trị và Bùi Kế đảm nhận liên tiếp trong 1 tuần, cuối cùng Ô. Thí nhìn nhận có nhận thơ của hai người Pháp ở Nhà Đèn Huế, và làm kinh tài cho tổ chức gián điệp Pháp, và còn khai thác mấy ông Võ Văn Quế, Châu Đình Chương và Nguyễn Văn Nhiệm ở Đà Nẵng. Có lẻ vì bị đau quá nên ông ấy khai tên những người quen biết. Tôi cho làm bản khai xong trình lên cho ông Cẩn .
Riêng ông Yến cũng bị bắt một lần với ông Thí do Nha An Ninh Quân Đội nhận hàng đầu khỏang 1,2 tháng gì đó, kết qủa khai thác như thế nào không rỏ, thì ông Yến đưa sang cho tôi làm tại lầu Hòa Bình. Tôi căn cứ vào lời khai ông Thí để thẩm vấn, ông Yến không chịu nhìn nhận gì hết, tôi phải dùng đến những biện pháp mạnh, như ngó đèn 500Watt, tra điện trong mấy ngày, ông Yến mới chịu nhận có làm gián điệp cho Pháp. Tôi giao cho Nguyễn Văn Trị và Bùi Kế hướng dẫn cho Ô. Yến làm bản khai, căn cứ theo lời khai của ông Thí, cũng như ông Thí trong thời gian lấy lời khai ông Yến cũng phải chịu những cực hình.
Ngay sau khi ông Thí khai ba người là các ông Võ Văn Quế, Châu Đình Chương và Nguyễn Văn Nhiệm, đối với ông Chương và ông Nhiệm tôi đặt gỉa thuyết làm kinh tài, còn riêng ông Võ Văn Quế là một cựu nhân viên Công An Pháp chuyên môn về tình báo tôi nghỉ rằng trong tổ chức kinh tài có cả tình báo nữa; nên tôi bảo nhân viên, không những khai thác về kinh tài mà còn chú trọng khai thác về tình báo nữa. Bằng vào lời khai của các nạn nhân trên kết hợp với sự suy nghỉ của tôi, tôi hệ thống hóa thành tổ chức kinh tài và gián điệp Pháp, xin chỉ thị của ông Cẩn để lần lượt bắt một số người gồm đủ các giới, quân nhân, công chức thương gia. Những người nầy bị bắt, vì tra đánh qúa sức không chịu đựng được, nên mới khai những người mình quen biết, do đó con số người dính líu vào vụ gọi là gián điệp Pháp, càng ngày càng tăng bao trùm hết các tỉnh ở Trung phần và Sàigon. Đi đôi với tổ chức gọi là gián điệp Pháp nầy là một cơ sở kinh tài mà sau đó tôi buộc các nạn nhân phải nạp tiền; tổng số tiền tôi thu được lên đến bốn triệu năm trăm ba mươi bảy ngàn. Những người bị bắt trong cái tổ chức gọi là kinh tài và gián điệp Pháp lên đến trên 50 người.
Tôi công nhận vụ gián điệp Pháp mà tôi lập hồ sơ là một vụ gỉa tạo nhằm mục đích tống tiền và triệt hạ một số Sĩ quan, công chức bất phân tôn gíao.
Nói về những hậu qủa khốc hại của vụ gián điệp Pháp gỉa tạo, bị can khai.
Vấn đáp: Vụ gián điệp Pháp giả tạo nầy đã làm cho ba người phải thiệt mạng là các ông Nguyễn Đắc Phương, Võ Côn, Trần Bá Nam một số người vô tội bị đánh đập tra tấn đến thành thương tật hoặc bức họ đến nổi phải tự vận (nhưng may cứu sống kịp) một số nạn nhân phải chịu tù đày, vong gia bại sản, đời sống ê chề điêu đứng một số lớn công chức vô cớ bị hàm oan
Hỏi về hồ sơ tiền kinh tài bị can có lạm dụng một sốn lớn đã xử dụng vào việc riêng thế nào bị can khai:
Vấn đáp: Số tiền kinh tài tôi không có lạm dụng, tôi đã chỉ dùng vào các việc như : trả tiền mua sắm vật liệu và dụng cụ văn phòng, trả tiền ăn cho các nạn nhân bị giữ tại trung tâm trừ các công chức, sửa xe cộ, phụ cấp cho nhân viên đi công tác v.v…Tất cả các việc chi tiêu trên đây đều có giấy tờ chứng minh, nhưng bây giờ tôi đã thiêu hủy sau ngày 1/11/63 cùng một lần với hồ sơ vụ gián điệp Pháp, vụ 11/11/60, 27/2/62 và các vụ VC.
Trên mục đích tiến thân, bị can đã thụ hưởng gì với quá trình phục vụ bên Ngô Đình Cẩn, bị can đã khai:
Vấn đáp: Tôi không được hưởng thụ một ân huệ gì trong suốt thời gian phục vụ với Ngô Đình Cẩn, ngay cả gia đình tôi cũng vậy, sở dĩ sau nầy tôi với ông Cẩn vì nghỉ đến thủy chung dù sao tôi cũng là người đã làm việc với ông ta, hơn nữa cũng nhận có sự mâu thuẩn giữa Ô. Cẩn và bác sĩ Tuyến ở Sàigon
Hỏi về việc làm vừa qua trong vụ gọi là gián điệp Pháp bị can thấy thế nào, bị can khai:
Vấn đáp: Tôi công nhận trong thời gian qua, trong vụ án gián điệp Pháp gỉa tạo tôi đã gây ra bao nhiêu là tội ác như :
- Vu khống, hảm hại một số người vô tội, bức họ đến tự vận chết
- Dùng cực hình tra tấn nạn nhân các nạn nhân đến thành thương tật
- Tống tiền các nạn nhân làm cho họ phải vong gia bại sản
- Triệt hạ một số quân nhân, công chức bất phân tôn giáo
- Gây đau thương tang tóc cho biết bao nhiêu gia đình
Hỏi bị can còn muốn khai thêm gì nữa không ?
Vấn đáp: Thưa tôi không khai thêm gì nữa

Khẩu cung nầy đã được lập xong hồi mười sáu giờ ngày tháng như trên gồm có chín trang đã được trao cho Phan Quang Đông đọc lại nhận đúng y cung, và bằng long ký tên dưới đây với chúng tôi


BẢN SAO
VIỆT NAM CỘNG HÒA
-------
NHA CẢNH SÁT QUỐC GIA VN
Huế, Ngày 8 tháng 5 năm 1964
TRUNG NGUYÊN TRUNG PHẦN
------------ --------- --
Số : 95/CSQG/ĐS/ GIÁM ĐỐC NHA CẢNH SÁT QUỐC GIA
MIỀN BẮC TRUNG NGUYÊN TRUNG PHẦN
------------ --------
Kính gởi Ông: TỔNG GIÁM ĐỐC CẢNH SÁT QUỐC GIA
(KHỐI CẢNH SÁT)  - SÀIGON
 TRÍCH YẾU : Vụ án gỉa tạo gián điệp Pháp do Phan Quang Đông tay sai đắc lực Ngô Đình Cẩn đã hòanh hành từ 1957 đến 1963
THAM CHIẾU : Qúy chuyển văn số 083 / TCSQG / TA ngày 29.1.64 và mật văn số 11182/TCSQG/ CSTP/5 ngày 14-4-64
------------ --------- ---

Thừa thiệp các mật văn dẩn thượng, nha tôi xin kính phúc trình Qúy Tổng Nha rỏ kết qủa điều tra về vụ gỉa tạo gián điệp Pháp do Phan Quang Đông trùm mật vụ của Ngô Đình Cẩn đã hòanh hành từ 1957 đến 1963.
Vụ án gỉa tạo nầy phát sinh vào khỏang đầu năm 1957, bởi sự tranh chấp quyền lợi giữa bà Cả Lễ (chị Ngô Đình Cẩn tên là Ngô Đình Thị Hòang) và ông Nguyễn Đắc Phương, thầu khóan ở Huế trong việc đấu thầu sửa chữa Điện Thái Hòa (Thành nội) Huế .
Sở dĩ ông Nguyễn Đắc Phương trúng thầu hồi đó là do sự chủ quan của ông Ngô Đình Cẩn tưởng không ai còn dám tranh thầu với bà Cả Lễ, nên không ra lệnh bố trí để bà nầy được trúng thầu.
Vì vậy khi được tin bà Cả mất mối lợi quan trong, Ngô Đình Cẩn liền dùng uy quyền bao quát của y hồi đó ra lệnh bắt giữ ông Nguyễn Đắc Phương về tội đã liên lạc buôn thuốc phiện lậu làm kinh tài cho tổ chức gián điệp Pháp. Sở dĩ Cẩn viện lý do để buộc tội ông Phương vì ông nầy đã mua gỗ của một Pháp kiều ở Đông Hà (Quảng Trị) để dùng trong công tác vừa thầu được.
Để pháp lý hóa việc bắt giữ nầy, ngày 12-5-57 Ngô Đình Cẩn ra lệnh cho Trần Văn Hương, một trong những tay chân thân tín của y, lúc bấy giờ giữ chức Cảnh sát trưởng thành phố Huế, trình Biện lý cuộc xin án lệnh sóat nhà ông Phương và bắt giam ông nầy luôn.
Mặt khác Ngô Đình Cẩn ra lệnh cho Vũ Đình Ban lúc đó làm tại Nha Học Chánh Trung Việt và giao cho tên nầy phụ trách thẩm vấn Nguyễn Đắc Phương. Sở dĩ có sự chỉ định nầy là vì Ngô Đình Cẩn căn cứ vào thành tích lắm thủ đọan của Vũ đình Ban lúc đó còn làm Trưởng ty Công an VC tại Bình Thuận. Chính tên nầy đã được VC giao công tác gỉa tạo một vụ án gián điệp Pháp tại nhà thờ “Kim Chua” với mục đích triệt hạ và sát hại giới trí thức có tư trưởng Quốc gia chống đối ngụy quyền VC hồi ấy.
Riêng Trần Văn Hương phụ trách sắp đặt nhân viên tìm địa điểm làm việc và chu cấp phương tiện cho Vũ Đình Ban trong việc thẩm vấn
Ban đầu ông Nguyễn Đắc Phương bị giữ tại phòng Công an Lưu động của Lê Hóac, sau chuyển qua giữ tại lầu Canh Nông (Thành nội) Huế
Dưới quyền Vũ Đình Ban Một số nhân viên Cảnh sát và Công an sau đây được Trần Văn Hương biệt phái ;
- Lê Văn Dư, nhân viên công an lưu động của Lê Hóac
- Phan Văn Huệ
- Nguyễn Văn Châu, nhân viên Nha Công An Trung Việt
- Nguyễn Văn Lộc (tức Lộc Xồi), nhân viên Ty Cảnh Sát Huế
- Nguyễn Văn Long, nhân viên Ty Cảnh Sát Huế phụ trách An Ninh
- Hùynh Niêm -
- Võ Đại Nong -
- Trần Văn Quang -
Vì không chịu đựng nỗi sự tra tấn quá dã man của Vũ Đình Ban và nội bọn sau 4,5 hôm ông Nguyễn Đắc Phương phải nhận liều có buôn thuốc phiện lậu, liên lạc với 1 Pháp kiều tại Đông Hà, Đồng thời cũng khai luôn làm kinh tài cho tổ chức gián điệp Pháp, do sự hướng dẫn gian ngoan của bọn nầy ông Phương đã làm khai xuất một hệ thống gián điệp Pháp tưởng tượng có liên lạc từ Seno ( Lào ) về Huế, đến tận Sàigon và qua cả Tân Gia Ba, trong đó có liên hệ đến vài người Việt Nam, trong số có ông Tống Văn Đen thầu khóan, Nguyễn Cao Khanh và Hòang Yến nhân viên Sở Thủy Điện Huế
Nhưng vào ngày 16-5-57 trong khi đứng khai chưa hết phần tổng quát thì ông Nguyền Đắc Phương chết. Cái chết nầy có phần mờ ám; bè lũ mật vụ hồi đó phao tin rằng ông Phương đã nhảy từ lầu Canh Nông xuống sân để tự sát. Nhưng dự luận cho rằng ông Phương đã bị tra tấn đến chết, và đã bị bọn tay sai của ông Ngô Đình Cẩn đem quăng xác từ lầu xuống để phi tang tránh trách nhiệm.
Để trấn áp mọi dư luận và cũng để chứng tỏ vụ gián điệp có thật, Ngô Đình Cẩn ra lệnh cho Vũ Đình Ban tiếp tục khai thác vụ nầy bằng cách bắt giữ thầu khóan Tống Văn Đèn (ngày 29-6-57) mà theo lời khai của Nguyễn Đắc Phương đã tham gia tổ chức gian điệp Pháp tại miền Trung.
Bị câu lưu tại lầu Hòa Bình (Thành nội), ông Tống Văn Đen tuy chịu mọi cực hình, khủng bố, dọa nạt, vẫn khăng khăng không chịu nhận tội làm gián điệp mà bọn Vũ Đình Ban,Dương Văn Hiếu, Trần Văn Hương, Phan Khanh và Lê Văn Dư thay phiên nhau tra tấn và gán cho.
Cái chết của Nguyễn Đắc Phương đã gây dự luận không hay đối với Vũ Đình Ban. Nên Ngô Đình Cẩn ra lệnh Vũ đình Ban giao lại nội vụ gián điệp cho Phan Quang Đông, nhân viên Nha Nghiên Cứu Chính Trị ở Sàigon biệt phái ra Huế. Tên nầy đã trực tiếp gặp Ngô Đình Cẩn nhận chỉ thị thẩm vấn Tống Văn Đen, làm sao cho có đủ tài liệu để gởi vào Sàigon bổ túc hồ sơ của tên Armagnao lúc bấy giờ bị câu lưu tại Nha Công An Nam Việt .
Tuy biết vụ nầy gỉa tạo, nhưng Phan Văn Đông vì muốn lập công với Ngô Đình Cẩn, nên đã bố trí với sự phụ giúp của Dương Văn Hiếu, Lê Văn Dư, Phan Khanh, Trần Văn Hương, Nguyễn Văn Trí và Bùi Kế, một cuộc thủ tiêu gỉa tạo để áp đảo tinh thần của ông Tống Văn Đen, làm ông nầy vì qúa khiếp sợ và cũng không chịu nỗi sự tra tấn, tàn bạo, đã khai bừa có làm liên lạc cho tổ chức gián điệp Pháp. Ngòai ra do sự hướng dẫn của bọn nầy, ông Đen có khai có nhận thư từ của các Pháp kiều sở Thủy Điện Huế để giao cho hai ông Phan Văn Thí (Chủ hiệu Đức Sinh) và Nguyễn Văn Yến (Chủ hiệu hảng Morin)
Ngày 13-4-57 Phan Quang Đông trình Ngô Đình Cẩn kết qủa khai thác Tống Văn Đen đồng thời được Cẩn ra lệnh bắt câu lưu hai ông Phan Văn Thí và Nguyễn Văn Yến để xét hỏi và việc hai ông nầy đã làm kinh tài cho Pháp và Cẩn buộc Đông phải làm cho được.
Cũng như các nạn nhân trước, ông Phan Văn Thí lúc đầu không nhận, nhưng sau một thời gian bị các cực hình khổ nhục (tra điện, đổ nước vào mũi, ăn xà phòng, nhìn ánh đèn 500W .v.v..) không thể chịu đựng nỗi, đành phải nhận làm cho tổ chức gián điệp Pháp với chức vụ Trưởng ban kinh tài Trung Phần, kiêm miền Bắc Trung Nguyên Trung Phần, do ông Nguyễn Văn Yến làm phó trưởng ban kiêm miền Nam Trung Phần. Do đó, về hệ thống kinh tài miền Bắc ông Thí đã khai do sự hướng dẫn của Phan Quang Đông và nội bọn, như sau :
+Quảng Trị:
- Ngô Đa Mỹ, thương gia
- Ngô Khôn Hà
+ Huế:
- Châu Đình Chương , thương gia
- Võ Văn Quế cựu công chức công an
+ Đà Nẵng:
- Nguyễn Văn Nhiệm thương gia
- Bành Hiệp Nguyên –
Riêng ông Nguyễn Văn Yến cũng như Phan Văn Thí vì bị tra tấn quá tàn nhẫn nên cũng đã nhận liều chức vụ đã bị gán ép đồng thời cũng khai một số cơ sở kinh tài gỉa tạo ở các Tỉnh miền Nam Trung Nguyên Trung Phần , như sau :
+ Quảng Ngãi:
- Bùi Công Thuận, thầu khóan
- Du Hau ( không bắt )
+Qui Nhơn:
- Trần Văn Thăng, thương gia
- Phan Kiêm ( không bắt )
+ Nha Trang:
- Quách Chuyên , thợ vàng
+Phan Thiết:
- Phạm Bờ ( không bắt )
Do đó các thương gia và thầu khóan trên đều lần lượt bị Phan Quang Đông và bè lũ bắt giữ từ 1957 đến 1960 và không một người nào chịu nỗi sự tra tấn đến phải thú nhận đã nhận tiền của hai ông Thí và Yến để họat động kinh tài cho tổ chức gián điệp Pháp .
Vào khoản đầu năm 1958, Phan Quang Đông đã nhận chỉ thị của Ngô Đình Cẩn phải thu hồi số tiền kinh tài ấy để nộp cho “ đòan thể ” và chi phí cho ban thẩm vấn .
Sau khi giải thích cho các nạn nhân trên là số vốn của Pháp phải nộp lại cho Chính phủ và buộc họ phải làm một tờ tình nguyện xin nạp tiền mà chúng gọi là chính sách “ cởi áo thực dân ”. Kết quả Phan Quang Đông đã thu được các số tiền sau đây :
Đợt I:
Ô. Châu Đình Chương nạp 250.000$00
Trần Tuyên Cáo - 220.000$00
Phan Văn Thí - 1.500.000$00
Nguyễn Văn Nhiệm - 200.000$00
Trần Văn Thăng - 150.000$00
Võ Văn Quế - 100.000$.00
Ngô Đa Mỹ - 500.000$00
Bùi Công Thuận - 200.000$00
Đợt II :
Ô. Ngô Đình Lan - 300.000$00
Võ Văn Quế - 150.000$00
Phan Hòang - 300.000$00
Bùi Công Thuận - 197.000$00
Nguyễn Văn Liên - 200.000$00
Nguyễn Văn Nhiệm - 100.000$00
Tống Văn Đen - 60.000$00
Bành Hiệp Nguyên - 40.000$00
Lê Văn Châu - 100.000$00
                                                   ____________ ___
                                                Cọng 4.597.000$00
Tổng số thu được bốn triệu năm trăm chín mươi bảy ngàn đồng ( 4.597.000$00 ) để nạp cho Ngô Đình Cẩn 2 triệu, còn lại 2.597.000$00 đương sự chi hỉ cho ban thẩm vấn của y.

*****

Ngòai ra Phan Quang Đông có đưa lời phát giáo của hai ông Phan Văn Thí và Nguyễn Văn Yến trong đó có khai ông Võ Văn Quế nguyên nhân viên Công an liên bang Pháp ở Huế, đã đặt gỉa thuyết rằng trong tổ chức kinh tài gián điệp còn có tổ chức tình báo nữa, nên Đông đã ra lệnh cho nhân viên thuộc hạ của y khai thác cho được cơ sở tình báo .
Do đó sau khi liên tiếp bị tra tấn hành hạ đủ mọi cách các ông Phan Văn Thí, Nguyễn Văn Yến và Châu Đình Chương lần lượt khai xuất riêng ông Võ Văn Quế ban đầu cương quyết từ chối không chịu khai nhưng sau một thời gian bị các biện pháp cứng rắn đến năm 1960 mới chịu để cho chúng hướng dẫn cung khai. (sau đó ông Võ Văn Quế cắt gân máu ở tay tự tử được chở đi bệnh viện cứu sống)
Phan Quang Đông đã bằng vào các lời khai trên, hệ thống hóa thành 1 tổ chức gián điệp Pháp, hoạt động từ Đông Hà vào đến Phan Thiết, y liền trình Ngô Đình Cẩn và lần lượt câu lưu tất cả những nạn nhân vào khỏang 50 người gồm có các thành phần quân nhân, công chức, thương gia và thường dân.
- Quảng Trị:
Ô. Nguyễn Cao Hưởng, công chức hành chánh Tỉnh
Nguyễn Văn Chiêu, giáo viên tiểu học
Lê Viết Sư, thường dân
Nguyễn Dung, nhân viên Công an
- Thừa Thiên
Ô. Trần Bá Nam, thương gia
Võ Văn Quế, cựu nhân viên Công an
Phan Văn Nghĩa, cựu thông ngôn quân đội Pháp
Trần Ngọc Liên, nhân viên Công an
Phạm Văn Khôi -
Nguyễn Văn Long -
Nguyễn Văn Tùng -
Đào Văn Minh, thường dân
Nguyễn Cửu Hựu, chủ tịch hội đồng
Hương Chính phường Phú Hòa Huế
Nguyễn Văn Tích, thợ may
Phan Hòang, thường dân
Ưng Dụng -
- Đà Nẵng:
Ô. Nguyễn Trường Sinh, thương gia
Nguyễn Trường Nguyên, thương gia
Tôn Thất Đôn, nhân viên Công an
- Quảng Nam:
Ô. Lê Hữu Chất, nhân viên tòa hành chánh Tỉnh
                             - Quảng Ngãi :
Ô. Nguyễn Xuân Giáo, nhân viên Công an
- Bình Định :
Ô. Võ Côn, chánh văn phòng Tòa hành chánh Tỉnh
Lê Quang Sóc, nhân viên Công an
Lê Lưu Di
Nguyễn Thượng Đông, quận trưởng hành chánh
Trần Tuyên Cáo, thầu khóan
Đặng Hữu Tiến, thương gia
- Tuy Hòa :
Ô. Đòan Đình Thuyết, nhân viên Công an
- Nha Trang :
Ô. Đoàn Văn Chân, nhân viên Công an
Võ Triều -
Nguyễn Mừng, thương gia
Trần Đình Lang, thương gia
- Phan Thiết :
Ô. Lê Miên, nhân viên Công an
Một số sĩ quan quân đội VNCH do cơ quan An ninh quân đội bắt trong thời gian ấy cũng được giao cho Phan Quang Đông giam giữ và thẩm vấn :
Ô. Trần Đình Hùng, Đại úy
Đỗ Duy Kỳ, Trung úy
Vĩnh Nhơn, -
Nguyễn Hòa -
Trần Minh Vọng, Trung sĩ
Ngòai ra Phan Quang Đông còn bắt giữ một số người có Pháp tịch ở Sàigon, tra vấn ép buộc có tham gia họat đông cho gián điệp Pháp tại Sàigon, như ;
- Bùi Đắc Lữ, cựu Đại úy Pháp
- Hồ Trọng Khôi, cựu nhân viên Công an Huế
- Nguyễn Thêm -
- Nguyễn Trọng -
Số nầy đã bi Phan Quang Đông truy tố trước tòa án quân sự vào khỏang đầu năm 1959 và bị kết án từ 2 đến 5 năm, nhưng sau đó đều được “ khoan hồng ” và trục xuất ra khỏi Việt Nam .
Một số khác lại bị bắt đưa về Huế giam giữ như các ông :
- Trương Hồ Báu, cựu Đại úy quân đội Pháp
- Nguyễn Nhân, thường dân
- Nguyễn Hữu Đức, thường dân
- Đỗ Tràng Độ, công chức (hiện ở Mỹ)
và cũng bị tra khảo đánh đập đến nỗi ông Trương Hồ Báu không chịu đựng được, phải nhận liều là giữ chức trưởng ban gián điệp Thành phố Sàigon- Chợ Lớn và do sự hướng dẫn của bè lũ Phan Quang Đông, khai xuất một hệ thống gián điệp Pháp giả tạo tại Sàigon-Chợ Lớn.
Tất cả các nạn nhân trên, Phan Quang Đông hoặc đã nhờ cơ quan chính quyền bắt, hoặc tổ chức cho nhân viên bắt cóc giữa ban ngày, đưa về tận địa điểm giam cầm bí mật(ban đầu ở nhà vôi Long thọ, sau đến Mang Cá nhỏ) dung cực hình tra tấn tàn bạo, khủng bố tinh thần, để sau cùng hướng dẫn họ khai trình một bản thú nhận tội lỗi đã họat động cho tổ chức gián điệp Pháp và một bản khai đầy đủ chi tiết trong tổ chức gián điệp trên mà chúng đã sắp đặt sẵn .
Vì sự tra tấn quá dã man độc ác, mà sức người không thể chịu đựng nỗi, nên hầu hết các nạn nhân dù can đảm đến đâu cũng đành bất lực và phải nhận tất cả các tội lỗi mà bè lũ Phan Quang Đông đã gán cho.
Hậu qủa của sự tra tấn ấy, đã làm một số nạn nhân như ông Trần Bá Nam (bị bắt vào khỏang tháng 5/1958) và Võ Côn (ngày 4/9/1958) đã phải chết trong các trại giam (ông Trần Bá Nam ở nhà vôi Long thọ, ông Võ Côn ở Mang Cá nhỏ).
              Một số khác khi được trở về, phải mang các chứng bệnh như gan, lá lách, phổi v.v
              Trước khi được trả tự do, tất cả các nạn nhân đều phải tuyên thệ tuyệt đối giữ bí mật không đựợc tiết lộ việc cung khai và giam giữ, nếu không sẽ bị thủ tiêu, nhưng một số thương gia và quân nhân đã tìm mọi cách để chứng minh sự oan ức của họ bằng cách gởi đơn khiếu nại vào “Tổng Thống phủ” và các cấp chỉ huy quân sự.
                   Sự kiện trên đã gây dư luận sôi nỗi và vì có thể có ảnh hưởng tai hại đến địa vị và uy tín cá nhân của y đối với Ngô đình Cẩn, nên Phan Quang Đông đã xin Cẩn đình chỉ vụ bắt giữ thêm số người có tên trong danh sách gián điệp gỉa tạo của y, mà theo chương trình sẽ lần lượt bị bắt giữ.
Vì vậy ông Võ Văn Quế (hiện ở California) là nạn nhân cuối cùng rời khỏi trại giam Mang Cá nhỏ vào khỏang đầu năm 1963.
Hầu hết số thương gia và một số thường dân sau các phiên tòa xử Phan Quang Đông tại Huế (ngày 26,27,28/3/ 64) và Ngô Đình Cẩn tại Sàigon từ ngày 16 đến 22 / 4 /64 đã đựợc Tòa án Cách mạng truyền hai tên nầy bồi thường tất cả các sự thiệt hại trong thời gian bị giam giữ.
Riêng một số công chức thuộc các tòa Hành chánh và Nha Cảnh sát Quốc gia Miền Bắc Trung Nguyên Trung Phần phóng thích vào khoảng 1961 đã được tiếp tục phục vụ tại nhiệm sở củ một thời gian sau ngày được trả tự do .
Một số khác, phóng thích khoảng 1962, mãi sau ngày Cách mạng 1/11/63 thành công, mới được Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia Sàigon cho phục hồi nguyên ngạch, nhưng đến nay bộ Nội Vụ vẫn chưa ra quyết định hủy bỏ Nghị định tạm cách chức các đương sự của chế độ củ (xin tham chiếu các mật văn số 9692,1503, 1702, 1233, 1044, 3384/CSQG/ HC/A ngày 28 /12 / 63, 16, 20, 21, 27 và 28/4/1964 của Nha tôi). Các nhân viên nầy tuy hiện đang phục vụ tại Nha Cảnh Sát Quốc Gia Miền Bắc TNTP, nhưng chưa được hưởng lương bổng từ ngày được lệnh nhận việc (30/11/63 và 9/12/63) trong khi các sĩ quan bị bắt trình trên đã được bộ Quốc Phòng cho tái ngũ với cấp bậc củ đồng thời được truy lảnh tất cả quyền lợi lương bổng từ ngày bị ngưng chức .

*****

Sau đây là thành phần Mật vụ phụ trách án gián điệp Miền Trung do Phan Quang Đông điều khiển:
- Chủ sở : Phan Quang Đông
- Phó Chủ sở : Lê Duy Cần, Đại úy quân đội VNCH
Bộ phận Văn Phòng
                   - Lê Bá Huấn, nhân viên Ty Công an Thừa Thiên biệt phái (sau
do Nguyễn Châu, nhân viên Tòa Hành chánh Thừa Thiên thay thế)
                    - Trần Đình Sứ, nhân viên Tòa Hành chánh Thừa Thiên biệt phái
        - Nguyễn Quang Hân, nhân viên Ty Công an Thừa Thiên biệt phái
                   - Đinh Ngọc Hòa, nhân viên Nha Công an Huế biệt phái
Bộ phận thẩm vấn
- Trần Đình Sứ
                              - Nguyễn Văn Trí, phụ trách thẩm vấn, chuyên dùng biện pháp mạnh (nhân viên Cảnh sát Huế biệt phái)
- Nguyễn Văn Cương, nhân viên Ty Cảnh sát Huế biệt phái
                     - Nguyễn Hửu Nùng - nt -
                     - Bùi Kế, phụ trách cung tiêu, chuyên dựng cung, nhân viên Ty Cảnh sát Huế biệt phái
                                           - Nguyễn Ngọc Huyên, phụ trách thẩm vấn (Ty Cảnh sát Thừa  Thiên

        Bộ Phận biệt phái  
- Lê Bá Huấn - nt -
- Nguyễn Vinh Thiết - nt -
- Nguyễn Đình Thung - nt -
- Nguyễn Hoan - nt -
- Nguyễn Bình, nhân viên Nha Cảnh sát Huế biệt phái
- Phan Thanh Bình - nt -
- Cao Đăng Quế - nt –

Bộ phận An ninh
- Nguyễn Chánh, nhân viên Ty Cảnh sát Huế biệt phái
- Trần Ngữ - nt -
- Phan Văn Vọng - nt -
- Đòan Đình Gioang - nt -
- Nguyễn Văn Đức, nhân viên Ty Cảnh sát Quốc gia Thừa Thiên biệt phái

                             Bộ phận tài xế
- Hồ Ngọc Hiệp, nhân viên Nha Cảnh sát Quốc gia Huế biệt phái
  - Nguyễn Văn Mầu, nhân viên Ty Cảnh sát Huế biệt phái
  - Nguyễn Sơn Khuyến, nhân viên Nha Cảnh sát Huế biệt phái
Ngòai ra có bộ phận điện đài để liên lạc với bác sĩ Trần Kim Tuyến ở Sàigon do một số Bảo an viên Tỉnh Thừa Thiên biệt phái
Tại Trung tâm Mang Cá nhỏ, còn có một trung độ Bảo an do Thượng sĩ Nguyên chỉ huy, có trách nhiệm giữ an ninh chung cho các nạn nhân vụ gi  GIán điệp
         Trong khỏan đầu năm 1963, bộ phận Mật vụ của Phan Quang Đông tuy đã được lệnh Ngô Đình Cẩn giải tán, nhưng Đông chỉ trả các nhân viên biệt phái về nhiệm sở củ khỏang 6 /63 mà thôi .
         Phan Quang Đông cùng 1 số tay sai đắc lực thân tín đã bị bắt giữ sau ngày Cách mạng 1/11/63
          Y danh đã bị Tòa án Cách mạng kêu án tử hình sau phiên tòa xữ tại Huế
            Vậy xin kính trình qúy Tổng Nha thẩm hành.
           Ngày 6-5-1964, Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng cho thành lập Tòa Án Quân sự tại Huế đem Phan Quang Đông ra xử bắn.
Tham Khảo:
          1) Biến Cố 1-11: Từ Đảo Chánh đến Tù Đày: hồi ký của các chứng nhân lịch sử: Thi - Đông, Sửu - Đán, Hương - Cầm, Tương - Vinh / Soạn giả Trần Tương -Xuân Thu - 1986
          2)"Chín Năm Máu Lửa dưới chế độ gia đình trị Ngô Đình Diệm", Nguyệt Đàm, Sài Gòn 1964.
          3)Bản Tin Báo Chính Luận
          4) Bản Khẩu Cung của Phan Quang Đông (Trung Tâm Lưu Trữ Quốc Gia I)
          5)"Biến Động Miền Trung", tác giả Liên Thành, trang 10-11
6)"Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi", Hồi Ký Hoàng Linh Đổ Mậu, trang 532-535           
7) " Hai Mươi Năm Qua 1945-1964 Việc Từng Ngày ", tác giả Đoàn Thêm
           8) "Dòng họ Ngô Đình - Ước Mơ Chưa Đạt", tác giả Nguyễn Văn Minh - tháng02-2004
           9) "Công và Tội", Nguyễn Trân - Xuân Thu 1992.
         10) "Đoàn Mật Vụ của Ngô Đình Cẩn", tác giả Văn Phan - Hà Nội 1996.
         11) và các sách báo tham khảo khác
L/S Trịnh Quốc Thiên (tác giả giữ bản quyền) trinhquocthien@ gmail.com
1) tác giả "Những Biến Cố Mất Lãnh Thổ - Lãnh Hải của VN từ 939-2002", xuất bản tháng 04/2002. Tác phẩm đã đoạt giải Biên Khảo 2008 của Hội Y Sĩ Quốc Tế - Việt Nam Tự Do, trao giải tại TP San José ngày 09 tháng 08 năm 2008. 2) Tác giả "Chính Biến 1-11-1963 và Tổng Thống Ngô Đình Diệm", xuất bản tháng 03/2009. 3) Chủ toạ đoàn & thuyết trình viên của Hội Thảo Lịch Sử & Truyền Thông "Tưởng Niệm 40 năm Tết Mậu Thân" tại trung tâm Việt Nam - TP Lubbock-Texas, 03/2008. 4) Chủ biên nhóm "Lịch Sử Việt" với nhiều bài viết về lịch sử VN.

                                                                 Trần Việt (sao lục)
Liên Thành Và Tội Ác

Bài 5;                     Phan quang Đông hung thần
của Nguyễn văn Yến và Nguyễn đắc Khương

THẦU-KHOÁN NGUYỄN VĂN YẾN

          Nhà thầu Nguyễn Văn Yến là một nhân-vật tên tuổi được đồng-bào khắp Huế mến thương.
Sau ngày hồi-cư vào năm 1947, Yến bắt đầu thu thuế tại chợ An Cựu là một chợ nhỏ, mà thời-gian đầu dân-chúng còn thưa-thớt nên chợ chưa có nhiều kẻ bán người mua .  Vợ anh cũng theo giúp chồng.  Tuy là chủ thầu nhưng cả hai đều đối xử tử-tế với giới chịu thuế, nhẹ tay với ai ít vốn, chước-miễn cho ai ít lời .
          Nhờ làm việc cần-cù, giao dịch khéo-léo, Yến đã tiến từ thầu nhỏ lên thầu lớn, và đỉnh cao là thầu được cơ-sở kinh doanh đồ-sộ của anh+em Pháp-kiều Morin chính giữa trung-tâm thủ-phủ của Miền Trung, đặt tên Nguyễn Văn Yến cho đại Khách-Sạn và Diễn Ðường này .
          Sự thành-công của Yến là một gai nhọn trước mắt những kẻ muốn chiếm độc-quyền khai-thác hoặc chi-phối mọi nguồn lợi kinh-tài . Thế là Yến bị bắt.
          Vợ Nguyễn Văn Yến bị bệnh hiểm-nghèo .  Sau khi được chữa lành, trước khi xuất-viện chị đã được y-sư giải-thích và căn dặn kỹ-càng: muốn sống thì đừng gần-gũi đàn ông.
          Thương chồng, chị đến gõ cửa khắp nơi; bao nhiêu tiền của chị đem ra dâng nạp hết, nhưng vẫn không có kết-quả.  Cuối cùng, chị được đưa đến ra mắt ông Cố-Vấn để cầu xin “Cậu” thi-ân.
            Nhờ ân của “Cậu”, chị chết.
           Nỗi đau thương của gia đình Nguyễn Văn Yến đã trở thành niềm căm-hận của mọi người: liền sau đó, chính Yến cũng bị giết chết trong tối-tăm.

***

THẦU KHOÁN NGUYỄN ÐẮC PHƯƠNG

          Là Trưởng-Phòng Huấn-Luyện, trong thời-gian có Khóa Tu-Nghiệp hoặc Khóa Anh-Ngữ Căn-Bản do tôi giảng dạy cho cảnh-nhân toàn Thành-Phố, tôi thường đến sớm để lo cho mọi thứ được chuẩn bị sẵn-sàng.  Có nhiều lần tôi ngạc-nhiên thấy Hội Ðường, mới chiều hôm qua còn ngăn nắp, mà sao
sáng hôm sau bàn ghế đã nghiêng lệch và trên nền lầu vương vãi những lá lót, giấy bọc, cùng nhiều loại thức ăn, đồ uống thừa                                                                                                                             
Những lần đầu, tôi nghĩ là do toán nhân-viên gác đêm bày tiệc ăn nhậu .
 Ðến lần nọ, tôi vào hỏi ông Ðỗ Hủi, Phó Chỉ-Huy; ông nhìn trung-úy Hoàng Ðạt Vọng, trả lời tôi: “Ðêm qua, Chi-Bộ họp”.  Chi-Bộ là tổ-chức Ðảng; tôi không ở trong Ðảng, tôi không thể phàn-nàn gì thêm.
          Môt hôm, nhân vào Sài-Gòn lập thủ-tục du-học Hoa-Kỳ, tôi gặp trung-sĩ Tôn Thất Óc giữa phố.  Óc là nhân-viên Ðội Biệt Ðộng ở Huế; cùng đi với anh có vài ba người nữa, đang ngồi trong một chiếc xe hơi đậu bên lề đường.  Anh dừng lại chào hỏi tôi .  Khi anh lên xe đi rồi, có mấy người mà tôi thấy quen mặt đang ngồi trong Nhà Hàng “Thanh Thế” vẫy gọi tôi vào .  Họ là công-chức, quân-nhân hoặc thường dân gốc ở Huế, nay vào tùng-sự, thụ-huấn hoặc sinh sống trong này .
           Nhạc-sĩ Châu Kỳ ghé vào tai tôi nói nhỏ: “Ðừng bắt mình, nghe Thanh Thanh!”  Tôi mở tròn mắt hỏi lại: “Tôi làm gì mà bắt ai ?”  Nhạc-sĩ Lê Trọng Nguyễn liền vỗ vai Kỳ: “Thanh Thanh không dính vào những vụ đó đâu!”
          Hồi đó, Cảnh-Sát và Công-An là hai ngành khác nhau, mà tôi thì ở bên phía tư-pháp hình-sự, không phải bên phía chính-trị.
          Một người hỏi tôi : “ Hôm nay các anh đã bắt được bao nhiêu mạng rồi  ?”  Thấy tôi ngơ-ngác, một người khác nói: “ Bọn hồi nãy là mật-vụ trong Ðoàn Công-Tác Ðặc-Biệt Miền Trung, vào đây bắt người đấy!”
          Tôi cũng có nghe nói đến tổ-chức ấy, nhưng không biết là họ thuộc cơ-quan nào, vì tại Nha và tai Ty Công-An Tỉnh Thừa-Thiên thì chỉ có Ban Hoạt-Vụ, Ban Lưu Ðộng, hoặc Ban Truy-Tầm gì đó thôi .
    Không-khí ở Sài-Gòn tự do hơn, nên mấy người này tranh nhau kể toàn những chuyện cướp đoạt, giam-cầm, tra-tấn, và thủ-tiêu dân lành, ở cả Huế lẫn các Tỉnh gần xa .
           Diệm thì huênh-hoang tuyên-bố: “Ðằng sau Hiến-Pháp còn có tôi!” để bị lũ gian-manh ngụy-tạo vườn cây sây trái cho mà đến thị-sát, khoe-khoang; Nhu thì kìm kẹp đối-lập ở P-42; vợ Nhu thì hùn-hạp làm ăn bất-chính với vợ Trần Chánh Thành; Cẩn thì thể-hiện hỏa-ngục ở Mang-Cá, hồ lửa ở Chín Hầm...
          Khi nghe tôi làm việc ở Ty Cảnh-Sát Huế, một người la lên:
        – Ðánh người ta vỡ đầu chết, rồi ném xác xuống sân, tri-hô là người ta nhảy lầu tự-tử, xong rồi vào đây lánh mặt hả?
           Các bạn khác cũng sững-sờ như tôi .  Một người ôn-tồn hỏi tôi: “Anh vào đây bao giờ?” 
Tôi đáp: “Sáng thứ năm” 
Người ấy thở phào: “Thế thì không phải là anh!”
          Người kia nhìn tôi dò xét, rồi như tin tôi, kể ngắn gọn:
            – Chúng bắt bừa, nhốt kín nhiều nơi, lâu lâu mới chở một số đến Ty Cành-Sát cho gặp thân-nhân một lần vào lúc nửa đêm.  Tại đó, chúng cũng khảo đả nạn-nhân.  Án-mạng vừa rồi xảy ra vào khuya thứ năm; tôi mới vào chiều hôm qua; thứ sáu .  Tội-nghiệp thầu-khoán Nguyễn Ðắc Phương!Tôi nghe mà lặng điếng cả người .
          Thì ra Hội Ðường, nơi tôi truyền-bá lý-thuyết lý-tưởng về nghiệp-vụ, nơi tôi phổ-biến đạo đức chính-trị của Ngô Tổng-Thống, đã bị dùng làm nơi chà đạp “nhân-vị” và sinh-mạng của con người!
          Trước đó, tôi có gặp Nguyễn Ðắc Phương một lần, tại nhà giáo-sư Nguyễn Như Minh.  Minh là thầy cũ của tôi ở “Thuận-Hóa Học-Hiệu”.  Ông vừa mới giao cho Phương, và Phương vừa mới khởi-công xây-cất một trụ-sở mới cho Trường Trung-Học Tư-Thục Nguyễn Du .
          Ngang đây thì tôi thấy trung-tá Ðoàn Ðình Từ, một người bạn thân của tôi, hiện làm Trưởng Ty Công-An Tỉnh Long-An, từ ngoài bước vào .  Từ bị thương trong một trận chạm súng với Việt-Cộng, chân đi còn khập-khiễng.  Ðể tránh đụng chạm, tôi kéo anh lên Nhà Hàng “Bồng Lai” .  Lát sau, tôi hỏi anh về nạn độc-tài, tham-bạo; anh lắc đầu thở dài: “Hết nước nói!  Minh chỉ biết diệt Cộng mà thôi!”

************

Nhận xét riêng của người viết:

          Qua phần biên bản hỏi cung và bản báo cáo kết quả của cơ quan cảnh sát điều tra, cũng như phần hồi ký của ông Lê xuân Nhuận, chúng ta thấy có những điểm cần lưu ý như sau:
I-/ Vụ biến loạn Quỳnh Lưu từ những ngày đầu tháng 11 năm 1956. Nếu “Phan Quang Đông, người chỉ huy một cơ quan Tình Báo Tối Mật của Quốc Gia,với những Điệp vụ phía Bắc vĩ tuyền 17. ”(trang 7- BĐMT).  Hay ông Phan quang Đông là “Đạo diễn chính vụ nhân dân Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An nổi dậy chống chính quyền Miền Bắc vào năm 1956 là một thí dụ điển hình công tác và nhiệm vụ của cơ quan nầy “ (trang 6- BĐMT) thì trước hết Phan quang Đông phải huấn luyện nhân viên điệp vụ cả trong Nam lẫn ngoài Bắc trước để chuẩn bị và thực hiện kế họach cho vụ dấy lọan ở Quỳnh Lưu. Công tác nầy phải được khởi động trước thời gian tháng 11.1956 rất lâu vì việc cài nguời, huấn luyện, thử thách,tuyển dụng, điều tra, sở ốc và thực tập – công tác nầy  kéo dài thường vài ba năm. Nhưng theo lời khai của Phan quang Đông thì khởi đầu công tác là:
- tháng 2/55, tôi (chữ tôi trong đoạn nầy xin được hiểu là Phan quang Đông) vào làm cho Sở nghiên cứu Chính trị của Bác sỉ Tuyến và đựơc ông nầy chọn đi học khóa Tình báo Phi Luật Tân, đến 6/55 mản khóa, trở về sở Nghiên cứu phụ trách việc dịch các bản tin Việt ra Pháp.
Nhưng thời gian Phan quang Đông thực sự nhận công tác mật vụ là:
- Từ 3/56 đến 10/56 tôi làm Trưởng Ban Phỏng vấn di cư vượt tuyến tại Quảng Trị và từ 10/56 đến 7/57, tổ chức tình báo tìm hiểu họat động VC từ Đông Hà vào Quảng Nam liên hệ với Nha Công An Trung Phần thu thập tin tức VC gởi về cho Sở Nghiên cứu Sàigon.
- Từ 7/57, tổ chức người vượt tuyến để lấy tin tức VC, tháng 10/57 Sở Nghiên cứu chỉ thị cho tôi thành lập Trung Tâm Tiếp Cư tại Huế họat động đến 9/63 thì Trung Tâm nầy giải tán.
- Tháng 5/61 được lệnh xây dựng Trung Tâm Kiểm Thính Huế họat động cho đến ngày tôi (tức Phan quang Đông) bị bắt
          Như vậy, từ tháng 3/56 Phan quang Đông mới bắt tay vào làm việc, giả thiết rằng Phan quang Đông có là Đạo diễn chính vụ nhân dân Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An nổi dậy chống chính quyền Miền Bắc vào năm 1956, thì Phan quang Đông không có đủ thời gian cần thiết tối thiểu để tổ chức một cuộc nổi dậy có vũ trang cả hàng mấy chục ngàn người tham dự. Nếu có thực như Liên Thành nói thì cả chế độ Miền Nam dưới quyền lãnh đạo của ông Ngô đình Diệm và những người thừa hành đều là kẻ sát dân muợn tay kẻ thù giết dân để tạo tiếng vang! (nhưng có tiếng vang thật không!).
Tôi không nhớ ai đó có nói một câu mà hầu như trong chúng ta ai cũng biết và công nhận : ”Hãy nói cho tôi biết bạn anh là ai, tôi sẽ nói anh là ai”.  
Đối với Liên Thành thì Phan quang Đông còn cao hơn bạn, dưới cặp mắt của Liên Thành thì Phan quang Đông là: “một nhân vật thượng đẳng, một bông hoa Hồng hiếm quý của Tình Báo Miền Nam” (trang 7 – BĐMT)  và “Phan Quang Đông một cấp chỉ huy thượng đẳng của cơ quan Điệp Báo miền Nam hoạt động ngòai Bắc” (trang 10 – BĐMT).
          Điều mà chúng ta cần lưu ý là vụ Quỳnh Lưu khởi sự biến bắt đầu tháng 9/1956 nhưng đến tháng 7/1957 Phan quang Đông mới phụ trách cơ quan tổ chức người vuợt tuyến để lấy tin tức để tìm hiểu họat động VC từ Đông Hà…
          Bây giờ chúng ta thử xem nhân vật thượng đẳng, bông hoa hồng hiếm quý của LiênThành: “Phan Quang Đông một cấp chỉ huy thượng đẳng của cơ quan Điệp Báo miền Nam hoạt động ngòai Bắc” (trang 10 – BĐMT) là người như thế nào:
  
          1/- Ông Cẩn không giao cho tôi một hồ sơ tài liệu nào mà chỉ nói rằng ngòai nầy đã bắt ông Tống Văn Đen khai thác chưa có kết qủa, tôi phải làm gấp cho có hồ sơ gởi vào Sàigon.
2/- Sau khi lảnh chỉ thị Ô. Cẩn tôi sang lầu Hòa Bình gặp Ô. Tống Văn Đen, ông ấy bị câu lưu và khai thác từ 9-10 ngày rồi nhưng chưa khai báo gì, thuyết phục không được, tôi nghỉ tới việc bố trí một cuộc thủ tiêu giả tạo để áp đảo tinh thần Ô. Tống Văn Đen, vì qúa sợ, Ô. Tống Huế, giao lại cho hai ông Phan Văn Thí và Nguyễn Văn Yến. Tôi cho ông Đen làm tờ khai xong, vào gặp Ô. Cẩn để trình bày về kết qủa khai thác .
           Mặc dầu: “Ty Cảnh Sát Huế phụ trách việc bắt và khám nhà hai ông Thí và Yến, nhưng không bắt gặp được một tài liệu gì về họat động gián điệp của họ cả”.Và “Bằng vào lời khai của ông Đen, tôi hỏi ông Thí có nhận thơ hai người Pháp ở Nhà Đèn do ông Đen đưa lại không, ông Thí phủ nhận”.
           Nhưng Phan quang Đông, nhà tình báo thượng đẳng của Liên Thành đã vận dụng tài năng thượng đẳng như sau của Phan quang Đông như sau:
        3/-Tôi dùng biện pháp mạnh như tra điện, cho uống nước dơ do Nguyễn Văn Trị và Bùi Kế đảm nhận liên tiếp trong 1 tuần, cuối cùng Ô. Thí nhìn nhận có nhận thơ của hai người Pháp ở Nhà Đèn Huế, và làm kinh tài cho tổ chức gián điệp Pháp, và còn khai thác mấy ông Võ Văn Quế, Châu Đình Chương và Nguyễn Văn Nhiệm ở Đà Nẵng. Có lẻ vì bị đau quá nên ông ấy khai tên những người quen biết. Tôi cho làm bản khai xong trình lên cho ông Cẩn.
            Và cho dù bên Nha An Ninh Quân Đội khai thác hai ông Yến và Thí 9,10 ngày mà kết quả vẫn không rõ, nên đành phải đưa nội vụ qua cho Phan quang Đông – (ông Thánh của ông Thành). Tại đây, Phan quang Đông dùng lời khai của ông Thi để khai thác ông Yến.
Nhưng rồi ông Yến không nhận gì hết, nên nhà tình báo Phan quang Đông phải đem tài thần thông thượng đẳng trước để khai thác sau để cho Liên Thành học hỏi, tài năng và thượng đẳng đó là:
4/ ….tôi phải dùng đến những biện pháp mạnh, như ngó đèn 500watt, tra điện trong mấy ngày, ông Yến, mới nhận có làm gián điệp cho Pháp. Tôi giao cho Nguyễn văn Trị và Bùi Kế hướng dẫn cho Ô.Yến làm bản khai, căn cứ theo lời khai của ông Thi, cũng như ông Thi trong thời gian lấy lời khai ông Yến cũng phải chịu những cực hình.
Không ngừng ở tội ác kinh hòang như trên, Phan quang Đông còn lập công là phải đạo diễn ra thêm một vụ tình báo kinh tài bên cạnh tình báo gián điệp Pháp. Có thể nói rằng Liên Thành là học trò xuất sắc của Phan quang Đông ít nhất là “dám nghĩ dám làm”. Sự dám làm của Phan quang Đông tàn ác như sau:
II/Bằng vào lời khai của các nạn nhân kết hợp với sự suy nghĩ, Phan quang Đông hệ thống hóa thành tổ chức kinh tài và gián điệp Pháp, xin chỉ thị của ông Cẩn để lần lượt bắt một số người gồm đủ các giới, quân nhân, công chức thương gia. Những người nầy bị bắt, vì tra đánh qúa sức không chịu đựng được, nên mới khai những người mình quen biết, do đó con số người dính líu vào vụ gọi là gián điệp Pháp, càng ngày càng tăng bao trùm hết các tỉnh ở Trung phần và Sàigon. Đi đôi với tổ chức gọi là gián điệp Pháp nầy là một cơ sở kinh tài mà sau đó Phan quang Đông buộc các nạn nhân phải nạp tiền. Tổng số tiền thu được lên đến bốn triệu năm trăm ba mươi bảy ngàn. Những người bị bắt trong cái tổ chức gọi là kinh tài và gián điệp Pháp lên đến trên 50 người.
Cuối cùng, bộ mặt thật của thầy  Liên Thành là Phan quang Đông phơi ra giữa ánh sáng công lý: “Tôi (tức Phan quang Đông) công nhận vụ gián điệp Pháp mà tôi lập hồ sơ là một vụ giả tạo nhằm mục đích tống tiền và triệt hạ một số Sĩ quan, công chức bất phân tôn gíao” Nói là bất phân tôn giáo, nhưng những nạn nhân đều là Phật giáo.
Trước khi bước sang phần những dư luận tại Huế chung quanh nhân vật thượng đẳng Phan quang Đông của Liên Thành. Chúng ta hãy cùng nhau nhìn lại tư cách Phan quang Đông:
Số tiền kinh tài tôi (tức Phan quang Đông) không có lạm dụng, tôi đã chỉ dùng vào các việc như : trả tiền mua sắm vật liệu và dụng cụ văn phòng, trung tâm trừ các công chức, sửa xe cộ, phụ cấp cho nhân viên đi công tác v.v…Tất cả các việc chi tiêu trên đây đều có giấy tờ chứng minh, nhưng bây giờ tôi đã thiêu hủy sau ngày 1/11/63 cùng một lần với hồ sơ vụ gián điệp Pháp, vụ 11/11/60, 27/2/62 và các vụ VC.
Thì ra cái mà Liên Thành hí hửng khoe khoang Phan Quang Đông về việc:’Không một hồ sơ, tài liệu, danh sách nhân viên và máy móc truyền tin liên lạc ngòai Bắc được ông Phan Quang Đông chuyển giao lại cho Tướng Trí. Tất cả đã biến mất nhiều giờ, trước khi căn nhà màu hồng nầy bị bao vây” (trang 8 – BĐMT), chính là những biên lai chứng từ chi tiêu lấy từ tổng số tiền Phan quang Đông thu được lên đến bốn triệu năm trăm ba mươi bảy ngàn. Những người bị bắt trong cái tổ chức “bị gọi” là kinh tài và gián điệp Pháp lên đến trên 50 người.. Đến đây người viết lại xin quý độc giả so sánh giá trị kim ngạch thời ấy là lương của một giáo sư Đệ Nhất cấp vào khoảng độ 5.000 đồng, một lượng vàng 24 khỏang 2.000 đồng. Để hiểu rõ hơn, trong quyển Những ngày chưa quân (tập thứ hai) của Đòan Thêm :”Ông (tức cố Tổng Thống Ngô đình Diệm) đã bảo một nhân viên có vợ và bốn con, vào năm 1960: lương ông mà những năm ngàn thì tiêu sao hết? (trang 75) và tại trang 113 tác giả Đoàn Thêm còn cho biết thời ấy “dâng 300.000 đồng để chạy chân tỉnh trưởng”.Như thế, chúng ta đã nhận diện dược Phan quang Đông đấng thượng đẳng của Liên Thành chỉ là một tên trong tập đòan tội ác giết người cưốp của! và hậu quả là : “Vụ gián điệp Pháp giả tạo nầy đã làm cho ba người phải thiệt mạng là các ông Nguyễn Đắc Phương, Võ Côn, Trần Bá Nam một số người vô tội bị đánh đập tra tấn đến thành thương tật hoặc bức họ đến nổi phải tự vận (nhưng may cứu sống kịp) một số nạn nhân phải chịu tù đày, vong gia bại sản, đời sống ê chề điêu đứng một số lớn công chức vô cớ bị hàm oan “
`Và :
Tôi (tức Phan quang Đông) công nhận trong thời gian qua, trong vụ án gián điệp Pháp gỉa tạo tôi đã gây ra bao nhiêu là tội ác như :
- Vu khống, hảm hại một số người vô tội, bức họ đến tự vận chết
- Dùng cực hình tra tấn nạn nhân các nạn nhân đến thành thương tật
- Tống tiền các nạn nhân làm cho họ phải vong gia bại sản
- Triệt hạ một số quân nhân, công chức bất phân tôn giáo
- Gây đau thương tang tóc cho biết bao nhiêu gia đình  (biên bản khẩu cung Phan quang Đông)

_________________________________________________________

Chú thích:
- Tùng Lâm (Matsubayashi) - Cuộc đời cách mạng Cường Để, nhà in Tôn Thất Lễ xb, Sài Gòn, 1957. Trang 10
(2) - Phan Bội Châu, Tự phán, NXB Anh Minh, Huế, 1956. Trang 35
(3) - Note sur l'agitation anti - française dcpuis dix ans et le parti nationaliste annamite. Trung tâm lưu trữ quốc gia (A.O.M) ở Aix-en-Provence (Pháp).Trang  15
(4) - Tlđd, trang 2
(5) - Tlđd, trang 27
(6) - Kỷ niệm 100 năm Phong trào Đông Du, NXB Tân Văn, Đông Kinh, 2005. Trang 228
(7) - Trần Mỹ Vân - A Vietnamese Royal Exile in Japan Prince Cường Để (1882 - 1951), NXB Routledge, London& New York, 2005. Trang 213.

                             Trần Việt

                      ---------------------------------------------------------

Bài 6:   Qua PHAN QUANG ĐÔNG nhận diện Ngô triều,           
               dư đảng Cần lao và Nguyễn Phúc Liên Thành

          Những tên cán bộ tình báo cao cấp của cộng sản được cài vào các cơ quan thuộc guồng máy thời ông Ngô đình Diệm cầm quyền sinh sát tại Miền Nam như  Vũ ngọc Nhạ, Phạm ngọc Thảo, Phan quang Đông v..v.., họ có những điểm giống nhau là giáo dân Thiên Chúa Giáo, do các linh mục thân cận với gia đình ông Ngô đình Diệm bảo lãnh hành vi chính trị:
1- Về tác hại thì Phan Quang Đông quan trọng nhiều lần hơn những điệp viên kia vì Phan Quang Đông vừa là đảng viên Cần Lao vừa là giáo dân Thiên Chúa giáo vừa là Mật Vụ Diệm Nhu nên hành vi tàn ác của Phan Quang Đông được sự đồng tình hay do chính anh em Ngô đình Diệm chỉ thị. Hệ lụy của Phan quang Đông đã mang đến thù hận ngút ngàn của dân chúng đối với Ngô triều.
Vụ án Phan Quang Đông là chứng tích đích thực bằng máu lệ tang khốc ghi đành rành  tội ác Ngô triều đối với nhân dân Miền Nam. Phan quang Đông đại diện cho Chế độ sắt máu và tham tàn man rợ của Ngô đình Diệm chủ trương giết người nhưng không bao giờ ân hận, đây là một chứng tích tận cùng ô nhục của Ngô triều trước lịch sử Dân tộc.
           Dư đảng Cần Lao vì muốn dối gạt lịch sử, đánh tráo Ngô triều và đảng Cần lao từ một tập đoàn tham bạo, độc ác, dã man hơn cả cầm thú thành bậc anh hùng, Đánh tráo từ tên đội đồ thành Đấng Vĩ nhân. Nhưng sự thật thì Cần Lao là bọn phản phúc, đê hèn. Vì địa vị, vì áo cơm chúng muối mặt phản chủ chạy theo đuôi Cách Mạng 1.11.1963  thậm chí chúng ngồi ghế xử tội, ngoảnh mặt với chủ cũ.
Ra hải ngoại, vì cần cấu thành lực lượng phục vụ cho “Lưỡi Gươm Và Thánh Giá”, mong tìm miếng đỉnh chung. Nghĩa là dư đảng Cần Lao chỉ vì áo cơm và tham vọng, chứ không vì lý tưởng, nhân cách, phục hận cho chủ củ. Ngô triều chỉ là chiêu bài. Hãy nhìn xem những kẻ từng quyền cao chức trọng như tướng Đặng văn Quang, tướng Nguyễn khắc Bình, tướng Huỳnh văn Cao, tướng Bùi đình Đạm hay như đại tá CSQG Trần minh Công, Mathew Trần, dân biểu Trần đình Ngọc, Thiếu tá Xuân tóc đỏ Nguyễn phúc Liên Thành v..v..khi còn trong nước, khi có điều kiện về quyền lực, có cả quyền tự do phát biểu bằng ngòi bút hay lời nói thì họ đã làm gì để phục hồi danh dự cho Ngô triều, ca ngợi “chí Sĩ” Ngô đình Diệm bái phục “khổng Minh tái thế” Ngô đình Nhu?. Những kẻ nầy chỉ cần áo cơm hơn tư cách của chúng chỉ là tư cách của bọn hèn hạ. Hôm nay họ hò hét huyên náo cũng chỉ vì áo cơm hèn mọn.
Bởi trong quá khứ, Cần lao không phục vụ cho Tổ quốc, nên cũng không thể loại trừ ngày nay dư đảng Cần Lao gây xáo trộn tại hải ngoại mà hành động vu khống, tấn công vào Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) là một trong những nhiệm vụ mà các thế lực cướp nước và bán nước thuê mướn.
Khi Phan Quang Đông khai hành vi chính của Phan quang Đông là:
- Triệt hạ một số quân nhân, công chức bất phân tôn giáo.
Thì rõ ràng Phan quang Đông đang thực hiện vai trò tên điệp báo Việt cộng,  đánh thẳng vào guồng máy, cán bộ, nhân dân và lý tưởng của Miền Nam.
Vì Liên Thành là kẻ nỏ mồm nhất ca tụng Phan quang Đông, trong khi Liên Thành hoàn toàn không biết gì về Phan quang Đông nên tôi không thể loại  trừ  Liên Thành đang thi hành chỉ thị của Việt cộng, Tàu cộng, và đang chưởi mướn cho Cần Lao.
Phan Quang Đông đã tích cực góp phần vào việc lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Cán bộ Mật vụ Diệm Nhu, đảng viên Cần lao Phan Quang Đông đã làm những gì mà gián điệp Vũ Ngọc Nhạ không làm được.
Thành tích đáng giá nhất của cán bộ Mật Vụ Diệm Nhu, Đảng viên Cần Lao, Gián điệp Việt cộng Phan Quang Đông là cố tình tra tấn tàn ác nhiều người vô tội, những hành vi nầy đã phủ lên chế độ một màu sơn hắc ám, đưa đến các cuộc biểu tình, làm thức tĩnh lương tâm và trách nhiệm các quân nhân, Sĩ quan, cán bộ, Tướng lãnh, trí thức, chính trị gia cùng gióng lên tiếng nói, tổng hợp sức mạnh, nhân danh quyền lợi của nhân dân, nhân danh sự an nguy của Tổ quốc đồng tâm làm cuộc cách mạng 1.11.1963 lật nhào chế độ gia đình trị thối nát và man rợ.
Nếu không là kẻ hoài Ngô, thì ai ai cũng hân hoan đón nhận tin mừng Ngô triều sụp đổ, ngay cái chết của ba anh em Diệm, Nhu, Cẩn cũng làm người dân hả dạ, xác tín về đạo lý Nhân Quả.
         Vụ án Phan Quang Đông, có những điều mà chúng ta cần lưu ý:
1/  Ngay đầu Biên bản cung từ đã xác định Phan quang Đông là cán bộ Cộng sản lộn sòng nằm vùng thường xuyên liên lạc với Bắc Việt qua giao liên, bưu thiếp!. Sở dĩ Phan Quang Đông được trọng dụng là vì y là người Thiên Chúa  Giáo,
Phan Quang Đông ngụy tạo một lý lịch giả khai quê quán Nghệ An, cha mẹ bị cộng sản đấu tố cho đến chết trong Cải Cách Ruộng Đất, nên nuôi mối thâm thù tận xương tủy đối với cộng sản. Để rửa mối thù cho cha mẹ, Phan Quang Đông tình nguyện hợp tác với ông Cố vấn Ngô Đình Cẩn. Sự  gian dối nầy được Linh Mục Cao văn Luận chuyển hoán thành thật .
Chi tiết đáng quan tâm Phan quang Đông khai dạy học tại trường Tư Thục Thiên Chúa giáo Thiên Khải đường Nghệ An từ 1950 – 1953. Nhưng tháng 12/1953 “tôi cùng các tên Phan Quang Điều, Phan Đình Phúc và Phan Quang Chính trốn qua Lào”.Tại sao lại trốn qua Lào, khi trường Thiên Chúa Giáo Thiên Khải nầy thuộc vùng kiểm soát của quân đội Pháp ?
Xin giải thích: Phan Quang Đông trốn qua Lào cốt để nhờ cậy ông Phan Văn Hóa (đang làm Comrep ?) hay là trốn để tránh sự lùng bắt của Phòng Nhì 2è Bureau và chuẩn bị một lý lịch giả tạo lừa gạt chính quyền lúc bấy giờ là Nguyễn Văn Tâm làm Thủ Tướng.
Một chi tiết khác cũng rất quan trọng đó là Phan quang Đông triệt để áp dụng lối ngón nghề tra tấn dã man là ngón nghề của Việt Cộng.         
Khi bị kết án tử hình mà tử tội Phan Quang Đông tuyên bố: “Tâm hồn tôi rất bình an, vì tôi là người Công Giáo. Tôi chỉ sợ tòa án lương tâm tôi và tòa án Đức Chúa GIÊSU KITÔ mà thôi. Nhưng hai tòa án này không kết tội tôi!” thì đến chết, Phan quang Đông cũng tin tưởng mãnh liệt rằng dù độc ác khát máu đồng chủng, nhưng tin chúa cũng sẽ được bình an,
Cần ghi nhớ :Không có một cán bộ hay đảng viên của Việt Cộng bị bắt trong số 50 người nạn nhân của Phan Quang Đông.
2/  Phan Quang Đông tra tấn rất thảm khốc để khai thác những người bị bắt.
          Vì phục vụ cho quyền lợi của cộng sản Bắc Việt, Phan Quang Đông đã dùng những cực hình tra tấn dã man, bức tử những người lương thiện, đó chính là những ngón đòn chí tử đánh vào chính thể của Ngô Đình Diệm. Với tư thế cán bộ hoạt động “trong lòng địch”, tên điệp viên cộng sản Phan Quang Đông triệt để thi hành chỉ thị của Đảng cộng sản tra tấn dã man bằng cực hình nhiều nạn nhân vô tội, gây nên hậu quả đương nhiên là chính quyền Miền Nam sẽ mất lòng dân và sẽ sụp đổ.   
Hành vi của Phan Quang Đông là nhằm đánh vào guồng máy chính quyền Miền Nam do Việt Cộng chủ mưu. Xin nhắc lại Phan quang Đông khai ra mục đích chính:-“Triệt hạ một số quân nhân, công chức bất phân tôn giáo” .Chữ Triệt hạ đã diễn tả rất rõ ràng của mưu đồ Việt Cộng. 
3/.Khi biện lý đọc xong bản án, viên lục sự hỏi Phan quang Đông:
- Tình trạng tâm hồn anh lúc này ra sao?
Phan quang Đông trả lời-“ Tâm hồn tôi rất bình an, vì tôi là người Công Giáo. Tôi chỉ sợ tòa án lương tâm tôi và tòa án Đức Chúa GIÊSU KITÔ mà thôi. Nhưng hai tòa án này không kết tội tôi!”
Làm sao Phan Quang Đông biết tòa án Đức Chúa Giêsu Kitô tha tội ?  
Tra tấn dã man các nạn nhân bắt các nạn nhân ngó đèn 500W, tra điện, nhận đầu nạn nhân vào thùng phân và nước tiểu. Các nạn nhần đã tự tử chết hay trở thành thân tàn ma dại Thế mà Phan quang Đông được đức Chúa Giêsu Kitô không kết tội thì thật đáng quan ngại về lẻ công bằng mà đạo Thiên Chúa thường rao giảng, hay Thiên Chúa luôn đứng về kẻ ác!?
 Phan Quang Đông là người Thiên Chúa Giáo, tất nhiên y chịu sự chi phối và sai khiến của các Linh Mục. Vậy với các hành vi tàn ác của mình, Giuse Phan Quang Đông có xin tội với các Linh Mục không? Dĩ nhiên là có vì y tin tưởng tuyệt đối vào đạo giáo của y cho đến chết, do đó việc y liên tục tra tấn các nạn nhân vô tội trong nhiều năm tháng thì tất nhiên phải có sự đồng tình của các Linh Mục. Cho dù Giuse Phan Quang Đông không  xin tội với các Linh Mục, nhưng tình báo của Thiên Chúa Giáo rất tinh vi và họ đã không thông báo cho chính quyền biết sự tàn ác kinh hoàng của giáo dân Thiên Chúa Giáo Phan quang Đông thì tất nhiên chính Thiên Chúa Giáo cũng đã ngấm ngầm chủ mưu để đưa tòan gia đình họ Ngô vào chỗ chết do thất nhân tâm vì những hành vi tàn ác của cán bộ Cần lao, Mật vụ Diệm Nhu, điệp viên cộng sản, Giáo dân Giuse Phan Quang Đông.
Hành động tàn ác đẩm máu dân lành không phải duy nhất chỉ là hành vi ngang nhiên cướp của giết người với sự đồng tình của bạo quyền Ngô triều, mà còn là thủ đoạn đe dọa, muốn tự bảo vệ, chỉ có con đường duy nhất là cải sang đạo Thiên Chúa.
Một tên có hành vi đanh ác như Giuse Phan Quang Đông mà không bị Đức Chúa GIÊSU KITÔ kết tội, thì có nghĩa là tòa án nầy đồng lõa với can phạm trong những tội ác tại Miền Trung, và tất nhiên chính Thiên Chúa cũng can tội chủ mưu hay đồng lõa.
Dùng cực hình tra tấn các nạn nhân  đến chết hoặc thân tàn ma dại mà tuyên bố  “Tâm hồn tôi rất bình an, vì tôi là người Công Giáo. Tôi chỉ sợ tòa án lương tâm tôi và tòa án Đức Chúa GIÊSU KITÔ mà thôi. Nhưng hai tòa án này không kết tội tôi!” thì bộ mật thật của Thiên Chúa giáo đã phơi bày ra giữa ánh sáng chân lý và lương tâm.
Kể từ ngày kết tội xử tử Giuse Phan Quang Đông đến nay, chưa có một viên chức nào của tổ chứcThiên Chúa Giáo lên tiếng binh vực hay kết tội hành vi tàn ác của Giuse Phan Quang Đông, nghĩa là mặc nhiên tất cả các Giáo phẩm Thiên Chúa giáo đồng lõa với Giuse Phan Quang Đông trong những tra tấn cực hình các nạn nhân vô tội, hoặc Phan quang Đông chỉ là miếng vỏ chanh bị vất bỏ vì không cần thiết nữa .
 Thử hỏi tên Phan Quang Đông giết và tra tấn người vô tội một cách dã man như đã khai, mà lại nói "Tâm hồn tôi rất bình an, vì tôi là người Công Giáo.", thì Công Giáo là cái thứ gì mà kỳ lạ vậy ? "Tâm hồn tôi rất bình an" sau khi chính "tôi" đã chủ mưu tra tấn và vu cáo để giết người vô tội! Thật không còn ngôn ngữ để diễn tả sự khinh bỉ!
        4/ Linh mục Cao Văn Luận, Viện trưởng viện Đại học Huế. gởi gắm Phan Phan Đông cho Ngô Đình Cẩn. Phan quang Đông khai:” như đã khai trên tôi nhờ sự tiến dẫn của linh mục Cao Văn Luận nên được các ông Ngô Đình Cẩn để có phần dể dàng làm việc và tiến thân trong tương lai”.
Cao Văn Luận  biết rõ gia thế của cán bộ Việt Cộng lộn sòng Phan Quang Đông, tên nầy còn mẹ và em tại Bắc Việt, nhưng hắn khai có cha mẹ bị cộng sản đấu tố cho đến chết trong Cải Cách Ruộng Đất. Và Phan quang Đông cũng khai:” Linh mục Cao Văn Luận biết rỏ gia tộc tôi từ khi tôi vào ở Hà Tĩnh”. Nhưng Linh Mục Cao Văn Luận vẫn im lặng đồng lõa sự gian dối ly lịch và còn bảo đãm hành vi chính trị cho Phan quang Đông. Sau nầy Linh Mục Cao Văn Luận bao che và giả đò mằt đui tai điếc về các thảm cảnh của người dân Huế trong những vụ tra tấn dã man của tên gián điệp cộng sản bắc Việt, tên cán bộ Mật Vụ Cần Lao Phan quang Đông. Xin hỏi ông Cao văn Luận về tư cách Linh Mục của ông?
Năm mươi năm nay lịch sử và máu hận của người dân chưa ngưng than oán tội ác Ngô Đình Cẩn về việc thiết lập 9 hầm dùng để tra tấn tù nhân do cán bộ Cần Lao kiêm Việt Cộng nằm vùng Phan Quang Đông thiết lập và điều hành quản trị.
5/  Phan Quang Đông chỉ nghĩ đến gia cảnh của riêng mình.Phan Quang Đông còn vợ dại và con thơ. Trong trường hợp nầy cả 2 phía "Thiên Chúa Giáo Vatican" và Việt Cộng đều làm áp lực với Giuse Phan Quang Đông để y nhận tội hết tất cả tội trạng. Tại sao Phan quang Đông  không khai ra những tên cộng sản  điều khiển, không khai các Linh Mục sai khiến . Vì nếu Phan quang Đông khai tổ chức cộng sản thì thân nhân của y như vợ con tại Miền Nam, như mẹ và 3 người em đang ở Miền Bắc sẽ không được toàn mạng. Lời viết trong thơ vô cùng tha thiết của Phan Quang Đông gởi về cho vợ y nói lên một sự nhẫn nhục bất thường của một con người chuyên lấy tra tấn dã man làm phương tiện và cứu cánh
          Tại sao khi y lãnh nhiệm vụ lấy khẩu cung những nạn nhân, thì y lại chủ mưu dùng cực hình để tra tấn các nạn nhân đến chết, mà y không nghĩ đến sự đau xót của vợ con của họ ? Cái vô liêm sĩ của cán bộ Cần Lao và cũng là tên cán bộ cộng sản lộn sòng Giuse Phan Quang Đông chính là ở điểm nầy.
Chính cái bản chất khốn nạn của cán bộ Mật Vụ Cần lao, điệp viên cộng sản, xem việc gây khổ đau hay vấy máu người là thú vui, là chuyện bình thường, Phan quang Đông không bao giờ nghĩ đến sự đau xót, sự đau khổ của nạn nhân. Nguyễn Phúc Liên Thành đã có cái tính tham ác man rợ của Phan quang Đông, đó là lý do tại sao Nguyễn Phúc Liên Thành ngưỡng mộ Phan quang Đông, tại sao bàn tay Nguyễn phúc Liên Thành đẩm máu giết, bắt, hành hạ, vu khống, nhục mạ đồng bào. Nguyễn phúc Liên Thành đã gây một núi tội ác, muôn ngàn phẫn hận, Liên Thành sẽ bị những oan hồn đòi mạng theo đúng luật nhân quả của cuộc đời.
           III. KẾT LUẬN:
         Tất cả tội ác của cán bộ Mật vụ Diệm Nhu, Điệp viên cộng sản, Đảng viên Cần lao  Phan Quang Đông đều được dùng để mô tả nhà Ngô! Đồng thời dùng để kết án tử hình chế độ Ngô triều của Ngô đình Diệm.
                        
                        Trần Việt


No comments:

Post a Comment